Thứ năm, 14/11/2024 05:25 GMT+7
Thứ hai, 12/08/2013 11:26 GMT+7

Khái quát về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp và các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp

1. Khái niệm về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp

 

 Để làm rõ khái niệm bảo vệ QSHCN, trước hết chúng ta cần làm rõ khái niệm về bảo hộ, thực thi QSHCN và mối liên hệ giữa chúng.

Trong Công ước Paris, bảo hộ QSHCN bao gồm các đối tượng là sáng chế, mẫu hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, tên thương mại, chỉ dẫn xuất xứ hoặc tên gọi xuất xứ hàng hóa, cũng như việc ngăn chặn cạnh tranh không lành mạnh.

Theo Từ điển tiếng Việt, thuật ngữ “bảo hộ” được hiểu theo nghĩa thông thường là “che chở, không để bị hư hỏng, tổn thất”. Việc bảo hộ luôn được gắn với sự quản lý của nhà nước thông qua các giải pháp để bảo vệ, giúp đỡ, hỗ trợ bằng chính sách, pháp luật mà mỗi quốc gia dành cho công dân hoặc tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động, cư trú ở nước đó.

        Theo TS. Nguyễn Thanh Tâm: bảo hộ QSHCN được hiểu là việc nhà nước, bằng những quy định của pháp luật, xác lập QSHCN, xác định những hành vi bị coi là xâm phạm QSHCN và quy định những biện pháp xử lý những hành vi vi phạm đó. Trong Luật SHTT, nội dung nhà nước bảo hộ đối với QSHCN là các quy định về việc bảo hộ QSHCN tại các cơ quan quản lý nhà nước như: các điều kiện bảo hộ, nội dung quyền SHCN, giới hạn QSHCN, thời hạn bảo hộ QSHCN, chuyển giao QSHCN, chứng nhận QSHCN…qua đó nhà nước đảm bảo quyền sở hữu với các đối tượng của QSHCN cho các cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác đã được cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ hoặc được thừa nhận. Hoạt động bảo hộ dưới góc độ của quản lý nhà nước đó chính là việc xác lập quyền cho các chủ sở hữu QSHCN theo quy định của pháp luật. QSHCN được nhà nước bảo hộ bằng các chính sách và hệ thống pháp luật về QSHCN. 

Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của trường Đại học Luật Hà Nội thì: bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là bảo hộ sản phẩm trí tuệ, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể QSHCN như tác giả, chủ văn bằng bảo hộ và người sử dụng hợp pháp đối tượng QSHCN.

  Do vậy, bảo hộ QSHCN được hiểu là nhà nước, bằng những quy định của pháp luật xác lập QSHCN (cấp văn bằng bảo hộ), xác định những hành vi bị coi là xâm phạm QSHCN và quy định những biện pháp xử lý những hành vi vi phạm đó.

Một khái niệm khác có liên quan đến SHCN đó là thực thi QSHCN. Trong hoạt động SHCN, việc bảo đảm các điều kiện cần thiết để các chủ thể của QSHCN thực hiện các quyền của mình trong phạm vi và thời hạn được pháp luật thừa nhận được gọi là hoạt động thực thi QSHCN (Industrial Property Enforcement).

Thực thi QSHCN là việc thực hiện pháp luật về SHCN, thông qua sự bắt buộc các chủ thể phải hoàn toàn tuân thủ, chấp hành pháp luật dù muốn hay không muốn. Nói tới thực thi QSHCN là nói tới trình tự, thủ tục mà các chủ thể phải tuân theo, cũng như các biện pháp xử lý, các chế tài do các cơ quan có thẩm quyền áp dụng khi có hành vi vi phạm.

 Xét về bản chất, nội dung quan trọng nhất của QSHCN là độc quyền sử dụng, khai thác đối tượng thuộc quyền. Vì vậy, thực thi QSHCN cũng có nghĩa là đảm bảo quyền khai thác, sử dụng đối tượng QSHCN của chủ thể nắm giữ quyền đó sao cho khi tiến hành việc khai thác sử dụng, người nắm giữ quyền không gặp phải sự cản trở từ phía người thứ ba. Nói cách khác, bản chất của việc bảo đảm điều kiện cần thiết để các chủ thể QSHCN thực hiện các quyền của mình là ngăn chặn mọi hành vi cản trở việc sử dụng, khai thác đối tượng QSHCN của chủ thể quyền.

Hiện nay, trong các văn bản quy phạm pháp luật và thực tiễn thi hành, vấn đề thực thi QSHCN được tiếp cận và giải quyết theo hướng bảo đảm các điều kiện ngăn ngừa và ngăn chặn việc người thứ ba (người không nắm giữ quyền) khai thác, sử dụng các đối tượng QSHCN đang trong thời hạn bảo hộ nhằm mục đích kinh doanh mà không được phép của người nắm giữ quyền và không thuộc các trường hợp pháp luật cho phép sử dụng. Như vậy, mục đích của thực thi QSHCN là ngăn ngừa và xử lý các hành vi bị coi là xâm phạm QSHCN, tạo ra sức sống trên thực tế cho các quy phạm pháp luật về SHCN.

Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và thực thi QSHCN là hai khâu có liên quan chặt chẽ với nhau trong quá trình bảo vệ QSHCN. Tuy nhiên đây là hai khái niệm có nội hàm khác nhau. Bảo hộ QSHCN được hiểu là việc nhà nước bằng những quy định của pháp luật, xác lập QSHCN, xác định những hành vi bị coi là xâm phạm QSHCN và quy định những biện pháp xử lý những hành vi vi phạm đó. Thực thi QSHCN là việc thực hiện pháp luật về SHCN thông qua sự bắt buộc các chủ thể phải hoàn toàn tuân thủ, chấp hành pháp luật dù muốn hay không muốn. Nói tới thực thi QSHCN là nói đến trình tự, thủ tục mà các chủ thể phải tuân theo, cũng như các biện pháp xử lý, các chế tài do các cơ quan có thẩm quyền áp dụng khi có hành vi vi phạm.

        Trước đây, trong các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực QSHCN, cũng như trong các điều ước quốc tế đều sử dụng thuật ngữ “bảo hộ  quyền sở hữu trí tuệ”. Thuật ngữ này được sử dụng phổ biến trong mọi hoạt động của lĩnh vực sở hữu trí tuệ, từ hoạt động xây dựng pháp luật, hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ đến các hoạt động thực thi QSHCN. Tuy nhiên, trong Luật SHTT, bên cạnh việc quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại các phần từ Phần thứ nhất đến Phần thứ tư, thì tại Phần thứ năm của Luật SHTT còn quy định về “bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ”.

Theo Từ điển tiếng Việt, “bảo vệ” là “chống lại mọi sự xâm phạm để giữ cho luôn luôn được nguyên vẹn”. Trong Luật SHTT, các quy định về bảo vệ quyền SHTT bao gồm các nội dung như: quy định chung về bảo vệ QSHTT; xử lý xâm phạm QSHTT bằng các biện pháp dân sự; xử lý xâm phạm QSHTT bằng các biện pháp hành chính và hình sự; kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến SHTT. Từ các nội dung trên, có thể hiểu bảo vệ QSHTT nói chung và bảo vệ QSHCN nói riêng là việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thông qua hệ thống chính sách và pháp luật, bảo vệ các quyền và các lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu QSHCN nhằm chống lại bất kỳ sự vi phạm nào của phía thứ ba.

Tóm lại, bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp được hiểu là bằng những quy định của pháp luật, Nhà nước xác định những hành vi bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và quy định các biện pháp xử lý những hành vi vi phạm đó, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác trong hoạt động sở hữu công nghiệp.

Bảo vệ QSHCN hiện nay là đòi hỏi khách quan, không chỉ nhằm bảo vệ quyền của người sáng tạo, mà còn là cơ chế bảm bảo sự công bằng, thúc đẩy hoạt động sáng tạo tìm tòi của con người, góp phần bảo đảm một nền thương mại bình đẳng, dựa trên nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh; góp phần thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ hợp pháp, qua đó nâng cao sự phát triển của toàn xã hội.

        Ý nghĩa của việc bảo vệ QSHCN

        Mục tiêu cuối cùng của hệ thống bảo vệ QSHCN chính là chống lại nguy cơ bị lợi dụng hoặc chiếm đoạt kết quả đầu tư sáng tạo và bảo vệ các cơ hội cho người đã đầu tư để tạo ra các kết quả sáng tạo đó, nhờ vậy mà kích thích, thúc đẩy các nỗ lực sáng tạo trong nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh. Hiển nhiên, mục tiêu nói trên sẽ không đạt được nếu không khắc phục được tệ nạn xâm phạm QSHCN. Hệ thống bảo vệ QSHCN chính là đảm bảo ngăn ngừa và xử lý các hành vi bị coi là xâm phạm QSHCN. Vì vậy, bảo vệ QSHCN chính là bảo đảm hiệu lực QSHCN của chủ thể quyền, khuyến khích hoạt động đầu tư sáng tạo, phát triển sản xuất, buôn bán trong nước.

       Trong quan hệ thương mại quốc tế, việc QSHCN không được bảo vệ và thực thi thoả đáng, hiệu quả thì sẽ bị coi là thực tiễn thương mại thiếu lành mạnh và là rào cản đối với thị trường tự do và mở cửa. Vì, khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường đó không cần đầu tư cho nghiên cứu và triển khai (R&D), có thể bắt chước, sao chép và bán các sản phẩm với giá rẻ hơn nhiều, và vì thế chiếm chỗ và loại các sản phẩm hợp pháp và chính hiệu ra khỏi thị trường đó. Kết quả là các nhà sản xuất chân chính không có khả năng thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận cần thiết để tiếp tục duy trì hoạt động cải tiến và sáng tạo, bao gồm cả việc tạo ra các sản phẩm mới, làm thiệt hại đối với các quyền lợi thương mại và đầu tư của họ. Hiện nay, nhiều nước, đặc biệt là các nước phát triển, đã coi việc bảo vệ các tài sản trí tuệ của họ như là điều kiện không thể thiếu được trong việc thiết lập các quan hệ thương mại (ví dụ như Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ). Tại Điều 7 của Hiệp định TRIPs quy định rằng, việc bảo vệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ sẽ “góp phần thúc đẩy cải tiến, chuyển giao và phổ biến công nghệ, mang lại lợi ích cho cả người sáng tạo và người sử dụng công nghệ, cũng như lợi ích kinh tế - xã hội nói chung và bảo đảm sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ”. Do đó, nếu hệ thống thực thi quyền sở hữu công nghiệp không hiệu quả thì sẽ làm tổn hại đến chính sách hội nhập quốc tế và đầu tư nước ngoài của quốc gia cho sự phát triển của mình.

Hiện nay, với sự phát triển nhanh chóng của hệ thống thương mại toàn cầu, sự bùng nổ của công nghệ thông tin đã kích thích nhu cầu của người tiêu dùng tăng lên nhanh chóng và ngày càng đa dạng. Điều đó đòi hỏi các nhà sản xuất phải nhanh chóng đưa ra thị trường các sản phẩm mới có sự thay đổi về kiểu dáng, mẫu mã, cũng như sự hoàn thiện về tính năng, tác dụng. Có thể khẳng định rằng, hiện nay không có hàng hoá có giá trị nào được thị trường chấp nhận mà lại không chứa các đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là một điều kiện không thể thiếu để các nhà sản xuất có thể duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó, có thể nói, các đối tượng sở hữu công nghiệp được tạo ra để đáp ứng nhu cầu nhất định của người tiêu dùng và việc đảm bảo thực thi quyền sở hữu công nghiệp cũng chính là bảo đảm cho người tiêu dùng được sử dụng sản phẩm chính hiệu, đảm bảo chất lượng đúng bản chất của nó. Và như vậy, hệ thống bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp không chỉ bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu, mà còn là phương tiện để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Tức là hệ thống thực thi quyền sở hữu công nghiệp còn có ý nghĩa nhất định đối với xã hội.

Hiểu rõ vai trò của việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp trong phát triển kinh tế - xã hội, Việt Nam đang chú trọng tạo dựng một hệ thống thực thi có hiệu quả trong hệ thống bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng để đạt được sự phát triển kinh tế đất nước nhanh chóng trong xu thế hội nhập với chính sách phát huy nội lực và tranh thủ sự đầu tư nước ngoài.

 

2. Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp

 

Tuỳ theo tính chất, mức độ xâm phạm, vi phạm hoặc tranh chấp về sở hữu công nghiệp, có thể áp dụng một hoặc một số trong ba loại trình tự pháp luật sau đây với mục đích nhằm bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp: bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự (tiến hành các vụ kiện theo thủ tục dân sự); bảo vệ QSHCN bằng biện pháp hành chính (đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính) và bảo vệ QSHCN bằng biện pháp hình sự (xét xử tội phạm về sở hữu công nghiệp). Cụ thể từng loại trình tự đó như sau:

 

2.1. Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính

 

Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp theo trình tự hành chính (bằng biện pháp hành chính) là thủ tục xử lý hành chính các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp bằng việc áp dụng các hình thức xử phạt vi phạm hành chính đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật.

        Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành các thủ tục xử phạt vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp, hay nói cách khác là các cơ quan thực thi quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính, là các cơ quan thuộc hệ thống hành pháp có chức năng liên quan đến quản lý nhà nước về sở hữu công nghiệp. Các cơ quan thực thi quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính không chỉ căn cứ vào đơn yêu cầu của chủ thể quyền bị xâm phạm mà còn chủ động phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật về sở hữu công nghiệp (trong đó có hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp) trong quá trình thực hiện các hoạt động thanh tra, kiểm tra các đối tượng thuộc quyền quản lý của mình theo chức năng được pháp luật quy định hoặc theo đơn tố cáo của công dân để xử phạt hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật. Hành vi vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp là hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định về bảo hộ (xâm phạm quyền) và quản lý nhà nước về sở hữu công nghiệp, nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự của mọi tổ chức, cá nhân hoạt động trên phạm vi lãnh thổ của quốc gia đều bị xử phại hành chính.

Hình thức xử phạt vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp gồm các hình thức sau:

(i) Hình thức xử phạt chính là: Cảnh cáo hoặc phạt tiền;

(ii) Hình thức xử phạt bổ sung: Tước quyền sử dụng có thời hạn hoặc không có thời hạn giấy phép có liên quan đến hoạt động sở hữu công nghiệp; Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp;

(iii) Các biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc tiêu huỷ vật phẩm, hàng hoá vi phạm; buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên sản phẩm, hàng hoá, phương tiện kinh doanh...

 

2.2. Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự

 

Như phần trên đã đề cập, các đối tượng sở hữu công nghiệp được coi là một loại tài sản và quyền sở hữu công nghiệp có bản chất là một loại quyền sở hữu tài sản. Bởi vậy, quyền sở hữu công nghiệp trước hết và chủ yếu là một loại quyền dân sự. Pháp luật bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp cũng theo các nguyên tắc bảo vệ các quyền dân sự khác. Theo nguyên tắc này, người chiếm giữ quyền sở hữu công nghiệp có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền phải tự chấm dứt vi phạm, yêu cấu các cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền của mình khi người xâm phạm nhận được yêu cầu xong không chấm dứt hành vi vi phạm. Để nhận được sự bảo vệ như vậy, người nắm giữ quyền phải chỉ ra người xâm phạm, phải chứng minh hành vi xâm phạm và có quyền đưa ra các yêu cầu về hình thức xử lý, nhưng trước hết bản thân người nắm giữ quyền phải chủ động tự mình tiến hành việc theo dõi, giám sát thị trường để phát hiện người và nơi đã thực hiện hành vi xâm phạm để cung cấp thông tin cho các cơ quan có thẩm quyền xử lý. Cơ quan có thẩm quyền chỉ chấp nhận xử lý theo yêu cầu của người nắm giữ quyền sở hữu công nghiệp khi hành vi xâm phạm quyền được người đó chứng minh thông qua việc cung cấp chứng cứ. 

       Thông thường, các vụ kiện dân sự đều được giải quyết tại Toà án. Tại Việt Nam, theo các văn bản về tố tụng dân sự thì các tranh chấp dân sự liên quan đến sở hữu công nghiệp thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương (Điều 25, 29 và 33 BLTTDS).

Trong các loại tranh chấp dân sự về sở hữu công nghiệp được giải quyết tại Toà án có các tranh chấp về việc sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp, tức là về việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Việc giải quyết tranh chấp có thể được khái quát như sau:

- Quyền khởi kiện dân sự: Theo nguyên tắc thông thường, người nào chứng minh được rằng mình là người có quyền hợp pháp theo quy định của pháp luật đều có quyền khởi kiện với lý do quyền của mình không được tôn trọng hoặc bị xâm phạm. Theo nguyên tắc đó, người có quyền khởi kiện về việc xâm phạm quyền của mình là người được cấp Văn bằng bảo hộ hoặc có căn cứ để chứng minh là người nắm giữ quyền.

Hầu hết quyền sở hữu công nghiệp đều có phạm vi (khối lượng) xác định và có thời hạn. Do vậy, quyền khởi kiện cũng chỉ giới hạn tương ứng với phạm vi và thời hạn đó. Theo quy định về tố tụng dân sự, quyền khởi kiện có đặc tính thời hiệu, nếu quá thời hiệu đó, quyền khởi kiện bị coi như mất.

Khi khởi kiện, người khởi kiện (nguyên đơn) phải chứng minh quyền khởi kiện của mình bằng cách xuất trình các chứng cứ cần thiết như: Văn bằng bảo hộ, các tài liệu chứng minh sự phát sinh quyền...

 Nghĩa vụ chứng minh trong các vụ kiện xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp: bên khởi kiện (nguyên đơn) có nghĩa vụ phải chỉ ra tên, địa chỉ người bị kiện, mô tả và chứng minh hành vi hoặc sự kiện là đối tượng của vụ kiện. Để làm được điều đó, nguyên đơn phải xuất trình các chứng cứ nhằm chứng minh cho các yêu cầu của mình. Nguyên đơn phải tự tiến hành điều tra, xác minh để phát hiện người xâm phạm quyền, thu thập chứng cứ để chứng minh về hành vi xâm phạm, đánh giá thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền đó gây ra. Nếu không có hoặc không đủ chứng cứ đáng tin cậy để chứng minh được hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của mình, Toà án sẽ bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn.

Các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo trình tự dân sự: Tuỳ theo tính chất, nội dung và mức độ xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của mình, người nắm giữ quyền có thể yêu cầu Toà án áp dụng và thực hiện một hoặc một số biện pháp xử lý sau:

(i) Bắt buộc người xâm phạm (bị đơn) chấm dứt hành vi xâm phạm, kể cả các biện pháp ngăn ngừa việc đưa các sản phẩm xâm phạm vào các kênh thương mại, nếu sản phẩm đó đã được nhập khẩu và hoàn tất thủ tục hải quan;

(ii) Bắt buộc bị đơn phải bồi thường thiệt hại, kể cả khoản lợi nhuận đáng lẽ mình thu được khi không xảy ra hành vi xâm phạm của bị đơn;

(iii) Bắt buộc bị đơn phải trả cho mình chi phí tham gia vụ kiện, kể cả chi phí hợp lý để thuê luật sư.

Nhằm đối phó với tình trạng tẩu tán, tiêu huỷ tang vật xâm phạm hoặc tẩu tán tài sản dùng để thi hành lệnh xử lý hoặc bồi thường trong các tình huống đặc biệt, người có quyền sở hữu công nghiệp bị xâm phạm có thể yêu cầu Toà án ra lệnh áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Nội dung của biện pháp tạm thời có thể là:

(i) Tạm giữ hàng hoá, sản phẩm bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp khi có căn cứ để nghi ngờ rằng bên xâm phạm có thể tẩu tán hoặc tiêu huỷ các hàng hoá, sản phẩm đó;

(ii) Lục soát nơi tàng trữ hàng hoá bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp hoặc nơi mà bị đơn kiểm soát với điều kiện là có cơ sở để tin rằng ở đó có tàng trữ chứng cứ và có nguy cơ chứng cứ đó bị thủ tiêu;

(iii) Tạm thời niêm phong thiết bị, phương tiện được dùng để thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp;

(iv) Tạm thời phong toả tài khoản của bị đơn nhằm bảo đảm tài chính để khắc phục hậu quả hoặc đền bù thiệt hại do việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp gây ra.

Tuy nhiên, để thuyết phục Toà án thực hiện việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thì người yêu cầu phải chứng minh nguy cơ mà nếu không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ đe doạ việc tiến hành xét xử hoặc cản trở việc thi hành các biện pháp xử lý, khắc phục hậu quả thi hành án sau này và phải cam kết đền bù mọi thiệt hại cho bên bị áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời nếu việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là không xác đáng hoặc bị lạm dụng. Thông thường, người yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời phải nộp một khoản tiền bảo chứng đủ để đền bù thiệt hại và bảo vệ lợi ích của bên bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời một cách thoả đáng khi yêu cầu đó không xác đáng. Và quyền buộc người đã yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời phải bồi thường thiệt hại do việc áp dụng các biện pháp đó gây ra cho người đã bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nếu biện pháp đó bị huỷ bỏ hoặc đình chỉ do bất kỳ lý do nào thuộc về người yêu cầu, thuộc về cơ quan tư pháp.

Mọi quyết định của Toà án về việc giải quyết vụ kiện dân sự về sở hữu công nghiệp đều phải được thể hiện bằng văn bản và được thông báo kịp thời cho các bên liên quan. Các bên có liên quan đều có quyền kháng án theo trình tự pháp luật.

 

2.3. Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hình sự

 

Trong trường hợp việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp gây tác hại nghiêm trọng cho xã hội và việc sử dụng chế tài hành chính không đủ để trừng phạt và răn đe người xâm phạm thì phải áp dụng biện pháp có chế tài mạnh hơn. Biện pháp hình sự, tức là coi người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đó là tội phạm và việc điều tra, xét xử loại tội phạm này phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.

Các tội phạm hình sự liên quan đến QSHCN quy định trong Bộ luật hình sự bao gồm: Tội xâm phạm quyền tự do sáng tạo (Điều 126); sản xuất và buôn bán hàng giả (Điều 156); sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 157); sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (Điều 158); vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ QSHCN (Điều 170); xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171).

Tuỳ theo mức độ nghiêm trọng của việc phạm tội, mức phạt có thể được áp dụng là phạt tiền hoặc phạt tù tương ứng với hành vi phạm tội quy định tại Bộ luật hình sự.

Đối với bảo vệ quyền SHCN theo thủ tục hình sự, khi xác định chủ thể của hành vi phải là cá nhân cụ thể để truy cứu trách nhiệm hình sự; còn theo thủ tục hành chính thì chủ thể của hành vi có thể là cá nhân hoặc tổ chức.  

Biện pháp hình sự mặc dù có tác dụng ngăn chặn và răn đe lớn đối với các hành vi xâm phạm quyền SHCN vì hình phạt của biện pháp hình sự thường nặng hơn rất nhiều so với hai biện pháp còn lại là dân sự và hành chính song biện pháp này cũng có những khó khăn riêng.

Ví dụ, theo quy định hiện hành thì việc chứng minh “gây hậu quả nghiêm trọng” là dấu hiệu bắt buộc: Tại mục 2.1 của Thông tư liên tịch 01/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP thì yếu tố “gây hậu quả nghiêm trọng” dựa trên các trường hợp: đã thu được lợi nhuận từ 10 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; gây thiệt hại về vật chất cho chủ sở hữu nhãn hiệu từ 50 triệu đồng đến dưới 150 triệu đồng; hàng hóa vi phạm có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 150 triệu đồng.

Trong thực tế, việc chứng minh lợi nhuận của người có hành vi xâm phạm quyền SHCN là khó khăn vì những đối tượng này thường ít sử dụng giấy tờ, sổ sách phục vụ thu thập chứng cứ chứng minh lợi nhuận.

 

3. Lựa chọn biện pháp dân sự hay hành chính trong bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp

 

Bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự thực chất là thông qua các quy định của pháp luật dân sự để xử lý các hành vi xâm phạm QSHCN của cá nhân, tổ chức đối với các chủ thể QSHCN. Bản chất của biện pháp dân sự là thông qua việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến QSHCN tại Tòa án nhân dân, các chủ sở hữu QSHCN không chỉ được quyền yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành vi xâm phạm QSHCN một cách có hiệu quả mà còn buộc bên vi phạm bồi thường thiệt hại do hành vi đó gây ra đối với thiệt hại về vật chất và tinh thần.

Như vậy, bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự được hiểu là việc các đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết các tranh chấp liên quan đến các đối tượng của QSHCN để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Thông qua việc giải quyết các tranh chấp về QSHCN, Tòa án sẽ bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ pháp luật về SHCN. Thông thường, việc giải quyết các tranh chấp về QSHCN tại Tòa án là cơ chế bảo hộ hữu hiệu nhất bởi QSHCN với bản chất là quyền dân sự, do vậy tranh chấp phát sinh từ QSHCN là các tranh chấp dân sự. Bảo vệ QSHCN không chỉ bảo vệ quyền tài sản mà còn gắn liền với việc bảo vệ quyền nhân thân của chủ sở hữu QSHCN. Trong đó quyền nhân thân là quyền thể hiện mối liên hệ không thể tách rời giữa tác giả với các đối tượng của QSHCN, còn quyền tài sản là quyền được hưởng những lợi ích vật chất từ việc cho phép sử dụng các đối tượng QSHCN thuộc sở hữu của mình.

Như trên đã đề cập, nói đến QSHCN là nói đến sự công nhận từ phía nhà nước đối với một quyền dân sự của các cá nhân, tổ chức. Bởi vậy, QSHCN trước hết và chủ yếu là một loại quyền dân sự, pháp luật về bảo vệ QSHCN cũng theo các nguyên tắc bảo vệ các quyền dân sự khác. Theo nguyên tắc này, người chiếm giữ QSHCN có quyền yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền của mình khi có sự xâm phạm.

Thông thường tại nhiều quốc gia trên thế giới, QSHCN được bảo vệ bằng biện pháp tư pháp, trong đó thủ tục tố tụng dân sự đóng vai trò chủ đạo, thủ tục tố tụng hình sự chỉ áp dụng ở những hành vi cố ý, xâm phạm với quy mô thương mại và thường chỉ giới hạn trong một số lĩnh vực của QSHTT. Do vậy, bảo vệ bằng biện pháp dân sự và áp dụng thủ tục tố tụng dân sự là biện pháp cần thiết bởi bản chất QSHCN là một quyền dân sự, do chủ thể quyền và người liên quan có yêu cầu và được giải quyết theo trình tự, thủ tục nhất định, luôn tuân thủ các nguyên tắc của Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự và luôn thể hiện sự bình đẳng giữa các bên trong quan hệ tranh chấp, qua đó giúp các bên có được thái độ mềm dẻo, linh hoạt khi qiải quyết, khắc phục những hạn chế mà biện pháp khác không giải quyết được.

        So với bảo vệ QSHCN bằng biện pháp hành chính, chúng ta thấy: đặc điểm quan trọng của việc bảo vệ QSHCN bằng biện pháp hành chính chính là ý nghĩa trừng phạt đối với hành vi xâm phạm quyền. Mọi hành vi xâm phạm, người thực hiện hành vi xâm phạm mà có gây tổn hại cho xã hội thì đều bị coi là vi phạm pháp luật và bị xử lý hành chính. Bên cạnh đó, biện pháp hành chính có tính tới đến tăng nặng mức phạt đối với các tình tiết tăng nặng như: vi phạm có tổ chức, vi phạm nhiều lần hoặc tái phạm, tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm khi người có thẩm quyền đã yêu cầu chấm dứt hành vi đó, sau khi vi phạm đã có hành vi trốn tránh, che dấu vi phạm...Tuy nhiên, biện pháp hành chính không thể buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại cho chủ thể quyền. Đây là hạn chế của việc thực thi quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính. Trong quá trình thụ lý và xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính, cơ quan hành chính có thẩm quyền thường chỉ xử phạt hành vi xâm phạm quyền, còn phần yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của chủ thể quyền đề nghị tách riêng và thực hiện theo trình tự dân sự. 

        Ngược lại, cơ chế dân sự điều chỉnh quan hệ giữa chủ sở hữu quyền và người xâm phạm quyền. Chẳng hạn, việc đền bù thiệt hại đã khắc phục tác hại của hành vi xâm phạm quyền gây ra cho người nắm giữ quyền, mà không đền bù thiệt hại cho người thứ ba và xã hội. Các biện pháp xử lý do biện pháp dân sự đưa ra về căn bản, giúp lặp lại thế cân bằng lợi ích cho người có quyền bị xâm phạm. Đối với người thực hiện hành vi xâm phạm, sau khi bị xử lý bằng biện pháp dân sự sẽ trở về trạng thái ban đầu trước khi thực hiện hành vi xâm phạm và không phải chịu trách nhiệm nặng hơn khi tiếp tục có hành vi xâm phạm. Chính vì vậy, việc thực hiện bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự sẽ đạt được mục tiêu là ngăn chặn hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của chủ thể quyền.

Tuy nhiên, hiện nay nhiều ý kiến cho rằng: ý nghĩa trừng phạt của biện pháp hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền thì việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính có tác dụng răn đe và phòng ngừa cao và chính vì vậy nó bảo đảm khắc phục phần nào khiếm khuyết trong việc thực thi quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự. Mặt khác, việc xâm phạm QSHCN nếu muốn xử lý theo thủ tục dân sự, thì bản thân chủ thể quyền hoặc đại diện của chủ thể quyền (nguyên đơn) phải gửi đơn khiếu kiện đến Toà án và phải đáp ứng yêu cầu tự chứng minh (tự cung cấp các chứng cứ để chứng minh hành vi xâm phạm quyền đối với bị đơn). Việc xử lý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo thủ tục hành chính trong trường hợp là hàng hóa giả mạo thì không bắt buộc chủ sở hữu quyền phải có đơn đề nghị xử lý, nếu được dư luận phát hiện hoặc do chính cơ quan có thẩm quyền biết được, thì đều có thể dẫn tới việc áp dụng các biện pháp hành chính đối với hành vi xâm phạm đó. Bên cạnh đó, cơ quan hành chính có thẩm quyền có thể tự thu thập chứng cứ để xác minh làm rõ đối với hành vi xâm phạm quyền cho quyết định xử lý của mình.

Lượt xem: 35887

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)
   capcha_img
Khách online:13149
Lượt truy cập: 12720558