Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930 là bước ngoặt lịch sử vĩ đại của dân tộc, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình, trực tiếp và toàn diện của Đảng, đất nước ta, dân tộc đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, tích lũy đủ thế và lực cho sự phát triển bứt phá, sẵn sàng tâm thế bước vào Kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Tiến vào kỷ nguyên mới là bước phát triển tất yếu, hợp quy luật vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại. Đây cũng là thời điểm ý Đảng hòa quyện với lòng dân trong khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, thịnh vượng, hùng cường, sớm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, sánh vai với các cường quốc năm châu.
Theo Tổng Bí thư Tô Lâm, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh, kỷ nguyên thịnh vượng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng thành công nước Việt Nam XHCN, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực và thế giới, cho hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu…
Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới là Đại hội XIV của Đảng. Từ đây, mọi người dân Việt Nam, trăm triệu người như một, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đoàn kết nhất trí, chung sức đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh.
Những định hướng, phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về "Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam" được Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ ra là những định hướng chiến lược, được hình thành trên những cơ sở khoa học vững chắc, có sức thuyết phục, dẫn dắt cao.
Để hiểu rõ hơn về nhận thức, nội hàm, nội dung, cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới; đích đến của kỷ nguyên vươn mình; cơ sở định vị mục tiêu đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới; các yêu cầu đặt ra trong triển khai toàn diện, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp để tạo sự phát triển đột phá trên các lĩnh vực; cơ hội, vận hội, thời cơ và thuận lợi của đất nước trong kỷ nguyên mới; những khó khăn, thách thức cần được nhận diện, có giả pháp để ứng phó, đối mặt và vượt qua…, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức Tọa đàm "Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc – Cơ hội và thách thức" với sự tham dự của các chuyên gia, nhà khoa học để hệ thống hóa, phân tích, nhận định, kiến giải, luận bàn về vấn đề này.
Các vị khách mời tham dự Tọa đàm gồm:
- PGS.TS. Đào Duy Quát, nguyên Phó trưởng Ban Thường trực Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương
- PGS.TS. Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam
- TS. Nguyễn Văn Đáng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
- GS.TS. Vũ Minh Khương, Giảng viên Trường Chính sách công Lý Quang Diệu Singapore
- TS. Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội (điều phối)
Tất cả Tổng thuật
Cũ nhất
09:01 ngày 27/12/2024
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Xin được hỏi PGS.TS. Đào Duy Quát, với thế và lực sau 40 năm đổi mới mà nước ta đã tích lũy được, có thể nói rằng đây là thời điểm chín muồi để đất nước ta, dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Đây cũng là bước phát triển tất yếu, hợp quy luật vận độngcủa cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại. Quan điểm và bình luận của ông về vấn đề này như thế nào?
PGS.TS. Đào Duy Quát (trái): Kỷ nguyên mới được đánh dấu bằng sự phát triển về chất, tức là được đánh dấu bằng những thành tựu trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội để tạo ra chất mới là đạt được mục tiêu và chuyển sang kỷ nguyên mới - Ảnh: VGP/Kim Liên
PGS.TS. Đào Duy Quát: Cách đây gần nửa năm, GS.TS. Tô Lâm được BCH Trung ương bầu giữ cương vị Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Với vị trí, trọng trách của người đứng đầu Đảng, trong gần nửa năm nay, đồng chí đã có nhiều bài phát biểu, bài viết đưa ra thông điệp mà chúng tôi quan niệm là một tư tưởng rất lớn. Đó là nhân dân ta, đất nước ta đang chuẩn bị bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình, kỷ nguyên tăng tốc bứt phá để đạt mục tiêu đến giữa thế kỷ này trở thành một nước XHCN phát triển thu nhập cao, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thông điệp này, tư tưởng lớn này đã đặt ra để toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc về kỷ nguyên mới.
Chúng ta bắt đầu từ khái niệm kỷ nguyên. Bài viết của Tổng Bí thư và trong cuộc nói chuyện ở Tiểu ban Văn kiện chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần thứ XIV, đồng chí Tổng Bí thư đã đề cập rất nhiều. Nhưng chúng ta nhìn chung đều quan niệm, nói đến kỷ nguyên tức là nói một chặng đường lịch sử phát triển nhất định của dân tộc, của nhân loại. Ở đây tôi muốn nói sự phát triển là về chính trị, kinh tế, xã hội. Kỷ nguyên ấy phải được đánh dấu bằng sự phát triển về chất, tức là từ lượng phải chuyển thành chất mới, phải được đánh dấu bằng những thành tựu trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội để tạo ra chất mới là đạt được mục tiêu và chuyển sang kỷ nguyên mới.
Với nhận thức này, Đảng ta trong Cương lĩnh 1991 cũng như Cương lĩnh 2011 đã sử dụng khái niệm kỷ nguyên. Cụ thể, trong lời mở đầu của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội năm 1991, Đảng trình bày: Từ 1930, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam vượt qua muôn trùng thách thức và lập nên những thắng lợi vĩ đại. Cuộc cách mạng tháng 8/1945 thành công đã mở ra kỷ nguyên độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam. Đảng đã vận dụng khái niệm này và đã trình bày ngay trong phần mở đầu Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991.
Chúng ta thấy chặng đường cách mạng từ khi Đảng ta ra đời năm 1930 đến 1945 đã mở ra cho dân tộc ta kỷ nguyên độc lập tự do. Từ năm 1946 đến 1975, Đảng ta lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành sự nghiệp kiến quốc, và đặc biệt là sự nghiệp kháng chiến, thống nhất đất nước, lập nên kỳ tích lịch sử và mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Đến năm 1986, Đảng ta khởi xướng sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng XHCN và hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện. Sau 40 năm Đổi mới này, như cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và vừa rồi là Tổng Bí thư Tô Lâm đã đánh giá, chúng ta đã đạt được những thành tựu vĩ đại, tạo ra những tiềm lực mới, mạnh, thế lực mới, rất mạnh.
Đáng chú ý, Tổng Bí thư Tô Lâm còn phân tích trong bối cảnh thế giới có 2 đặc điểm rất đáng chú ý là toàn cầu hoá vẫn đang diễn ra, là xu thế không thể đảo ngược, dù có thăng trầm, tức là xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển vẫn là rất mạnh. Đặc điểm thứ hai Tổng Bí thư đã chỉ ra là cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn chưa bao giờ gay gắt như bây giờ. Họ có thoả hiệp nhưng cạnh tranh, đối đầu ngày càng gay gắt, quyết liệt trên nhiều lĩnh vực cả chính trị, kinh tế, công nghệ... cạnh tranh vừa lôi kéo, vừa đối đầu ngày càng gay gắt, quyết liệt. Tổng Bí thư có dự báo rất sắc sảo rằng cuộc cạnh tranh chiến lược này có thể kết thúc vào năm 2030. Lúc ấy có thể hình thành thế giới đa cực thay cho thế giới đơn cực xuất hiện sau năm 1991 khi hệ thống CNXH ở Liên Xô và Đông Âu tan rã.
Năm 2030 có thể hình thành thế giới đa cực, vừa tạo ra thách thức mới nhưng cơ hội mới cũng rất lớn. Đối với những quốc gia có trí tuệ, có vị thế, có chính sách đối ngoại đúng đắn sẽ có thể tận dụng, tranh thủ được sức mạnh của thời đại trong điều kiện này.
Nếu biết phối hợp, gắn chặt các điều kiện, tiềm lực, thế lực, vị thế, uy tín của chúng ta với thời cơ chiến lược, chúng ta dứt khoát mở ra và bướt vào kỷ nguyên mới của dân tộc.
Thông điệp, tư tưởng lớn của Tổng Bí thư Tô Lâm đã được Hội nghị 10 Ban Chấp hành Trung ương vừa rồi hoàn toàn nhất trí và quyết định đưa vào văn kiện của Đại hội tới để lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta thực sự bước vào với khí thế tăng tốc, bứt phá và đổi mới quyết liệt như các cuộc cách mạng để tạo ra bước phát triển bứt phá nhảy vọt. Tôi thấy đây tạo ra một sự hứng khởi chưa từng thấy sau khi có thông điệp của Tổng Bí thư.
09:19 ngày 27/12/2024
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: PGS.TS. Đào Duy Quát đã nêu khá rõ khung khái niệm "kỷ nguyên". Kỷ nguyên là một giai đoạn lịch sử có tính chất mới, đánh dấu bằng sự khác biệt so với trước, bắt đầu với đặc điểm là chuyển từ lượng sang chất. Chúng ta thấy, khi chúng ta từ chế độ nô lệ giành được độc lập thì bắt đầu kỷ nguyên độc lập, tự do của dân tộc. Hiện chúng ta đang sống trong kỷ nguyên số, với tính chất của kỷ nguyên là công nghệ mới, tạo nên sự khác biệt. Kỷ nguyên mới mà dân tộc ta bước vào là "kỷ nguyên vươn mình". Dân tộc này trải qua bao thử thách, khó khăn, bây giờ có một vị thế mới, vươn lên mạnh mẽ, không chỉ phát triển về kinh tế, phát triển về khoa học, công nghệ mà còn vươn lên một vị thế mới trên trường quốc tế. Vị thế mới ấy không phải chúng ta muốn mà thế giới công nhận, cộng đồng quốc tế đặt chúng ta lên vị trí đó. Đấy là khuôn khổ khái niệm.
Thời gian qua, những thông điệp và định hướng về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc được Tổng Bí thư Tô Lâm đề cập nhiều lần ở nhiều hội nghị, hội thảo khoa học. Đây là những định hướng chiến lược được hình thành trên những cơ sở khoa học vững chắc, có sức thuyết phục, dẫn dắt cao. Thưa TS. Nguyễn Văn Đáng, ông có thể bình luận, phân tích rõ hơn luận cứ khoa học, thực tiễn, nhận thức về kỷ nguyên mới theo quan điểm chỉ đạo, gợi mở của Tổng Bí thư cũng như thời điểm chúng ta lựa chọn để tự tin, vững bước vào kỷ nguyên mới?
TS Nguyễn Văn Đáng: Như PGS.TS. Đào Duy Quát đã chia sẻ, cụm từ kỷ nguyên mới rất hay, truyền cảm hứng. Qua theo dõi của tôi, cụm từ này được Tổng Bí thư Tô Lâm sử dụng lần đầu tiên tại cuộc họp Tiểu ban Văn kiện chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần thứ XIV vào ngày 13/8. Sau đó, đến ngày 31/10, Tổng Bí thư có bài trình bày trước lớp đào tạo cán bộ chiến lược tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Đến thời điểm này, cụm từ "kỷ nguyên mới" rất truyền cảm hứng, được nhân dân đón nhận, tin tưởng. Vấn đề là tại sao cụm từ này, quyết tâm chính trị này được người dân đón nhận hứng khởi như vậy?
Chúng ta nhìn lại lịch sử nhân loại, cụm từ "kỷ nguyên" thường được các nhà nghiên cứu lịch sử và các nhà xã hội học dùng để nhìn lại quá khứ và dùng các đặc điểm vật chất nào đó để xác định một giai đoạn, ví dụ kỷ nguyên đồ đá, kỷ nguyên đồ đồng hay kỷ nguyên công nghiệp, bây giờ là kỷ nguyên công nghệ, kỷ nguyên số. Chúng ta lại dùng "kỷ nguyên" cho tương lai, thể hiện sự khác biệt. Ở đây, chúng ta chủ động xác định khoảng thời gian trong tương lai và ý chí quyết tâm chính trị của lãnh đạo Đảng và Nhà nước thể hiện rằng, trong thời gian tới, chúng ta sẽ có những bước tiến, bước chuyển hết sức rõ rệt về thực tế đời sống kinh tế, xã hội của đất nước.
Khi chúng ta đề ra kỷ nguyên trong tương lai, tại sao lại được cán bộ, đảng viên và cả xã hội hứng khởi tiếp nhận như vậy? Cơ sở nào đem đến sự thuyết phục cho cụm từ này? Vấn đề này đã được các nhà nghiên cứu phân tích rất nhiều trên báo chí, truyền thông và đặc biệt trong các bài trình bày của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, cũng như tại các hội nghị Trung ương, các cuộc họp sau này. Có rất nhiều cơ sở giúp mọi người quan sát được, cảm nhận được, thuyết phục được mọi người.
Về mặt kinh tế chẳng hạn, sau gần 40 năm đổi mới, chúng ta đã thoát ra khỏi vị trí của một nước nghèo để trở thành nước thuộc nhóm thu nhập trung bình từ những năm 2008-2009. Từ chỗ GDP bình quân đầu người chưa đến 200 USD những năm 1990, đến nay GDP bình quân đầu người đã khoảng 4.300 USD. Đó là sự thay đổi rất rõ rệt, thuyết phục.
Thứ hai, thương mại quốc tế từ chỗ gần như bị cô lập trên trường quốc tế, đến nay chúng ta đã có được các hiệp định thương mại tự do với gần 20 nước và tham gia tất cả tổ chức quốc tế trên thế giới và có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với các siêu cường trên thế giới. Điều đó thể hiện sự hội nhập thế giới rất sâu rộng, chủ động, thành công của Việt Nam.
Về mặt xã hội, đến nay chúng ta đã xóa đói, giảm nghèo rất thành công, được các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới coi là một câu chuyện thành công, đưa tỉ lệ nghèo đói của Việt Nam xuống rất thấp.
Về mặt chính trị, từ cuối những năm 1980 cho đến những năm 1990, hệ thống XHCN ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổBbất chấp những biến động chính trị rất mạnh mẽ như vậy và thế giới có những cuộc cạnh tranh đa dạng, phức tạp trên bình diện khu vực và toàn cầu, Việt Nam vẫn giữ vững được sự ổn định chính trị trong gần 40 năm vừa qua.
Như vậy, có thể nói, trên mọi phương diện: kinh tế, chính trị, xã hội, đối ngoại, thương mại quốc tế…, chúng ta đều có những bước tiến rất rõ rệt. Không chỉ nhân dân trong nước được thụ hưởng thành quả ấy mà cộng đồng quốc tế cũng thừa nhận. Tất cả chuyển hóa thành trạng thái, tâm thế để người Việt Nam cảm thấy cần có sự bứt phá để vị thế quốc gia lên một tầm cao mới. Chính tâm thế đó của toàn bộ nhân dân Việt Nam khiến cho khi Tổng Bí thư Tô Lâm nêu ra cụm từ "kỷ nguyên mới", sau đó phân tích, bình luận và hướng người dân về tương lai, được người dân đón nhận rất nồng nhiệt, ủng hộ quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước trong việc thay đổi vị thế quốc gia trong hơn 2 thập kỷ tới, cụ thể hơn là đến giữa thế kỷ 21, đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển thu nhập cao. Tức là chúng ta cố gắng vươn lên nhóm quốc gia hạng nhất trên thế giới.
Đây là quyết tâm chính trị rất tham vọng, rất nhiều thách thức sẽ đón đợi chúng ta, nhưng tôi tin những gì đang diễn ra cho thấy đó chính là khát vọng của dân tộc Việt Nam. Sau gần 40 năm đổi mới chúng ta phải bứt phá để vươn lên chứ không thể chùng chình. Cụm từ "kỷ nguyên mới", "kỷ nguyên vươn mình" rất rõ: Phải vươn lên để bứt phá chứ không thể bình bình, tịnh tiến từ từ. Nhìn sang các nước trong khu vực, họ đã đi trước chúng ta và có những bước phát triển rất nhanh trong thời gian tính bằng thập kỷ. Tuy nhiên, sau đó họ rơi vào vòng luẩn quẩn, bẫy thu nhập trung bình. Nếu chúng ta không chủ động, không nhìn thấy thách thức ấy để bứt lên, vươn lên thì chúng ta cũng sẽ rơi vào tình trạng như Malaysia, Indonesia, Thái Lan. Chúng ta có thể tăng GDP bình quân đầu người lên 8.000-9.000 USD nhưng không thể bứt qua được 10.000 USD, tức là chỉ ở mức nước thu nhập trung bình cao, chứ không thể gia nhập nhóm các nước phát triển với GDP bình quân đầu người trên 13.000 USD, chỉ số phát triển con người phải vượt 0,8. Đấy là thách thức.
Chính vì thế, cụm từ "vươn mình" mà Tổng Bí thư Tô Lâm sử dụng rất ý nghĩa, như một sự nhắc nhở, cảnh báo chúng ta phải bứt phá, nếu không chúng ta vẫn có thể phát triển nhưng luẩn quẩn ở mức dưới 10.000 USD/người/năm và không thể gia nhập được nhóm các quốc gia phát triển, không thể hiện thực hóa được tầm nhìn 2045 là thay đổi hẳn vị thế của quốc gia, của dân tộc trên trường quốc tế.
Với những căn cứ hết sức thực tế mà chúng ta quan sát được, cảm nhận được tâm thế xã hội, tôi muốn khẳng định: "kỷ nguyên mới", "kỷ nguyên vươn mình" của dân tộc mà Tổng Bí thư Tô Lâm phát động và nêu ra hiện nay đang được người dân rất quan tâm, đồng tình, ủng hộ, tạo niềm cảm hứng trong toàn hệ thống xã hội. Người dân kỳ vọng Đại hội XIV của Đảng sẽ là dấu mốc để chúng ta thực sự bắt tay vào việc thay đổi vị thế quốc gia trong hơn 2 thập kỷ sắp tới.
09:28 ngày 27/12/2024
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: TS. Nguyễn Văn Đáng đã nêu rất rõ căn cứ, cả về khoa học và cả về thực tiễn. Thứ nhất là nền tảng kinh tế của chúng ta vượt qua nước nghèo rồi phát triển rất nhanh, mạnh. Việt Nam là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới. Nếu tính về thu nhập, trong thời gian đổi mới, thu nhập của người dân Việt Nam tăng lên tới 20 lần. Rất ấn tượng!
Căn cứ thứ hai là chúng ta có một hệ thống chính trị hết sức ổn định. Có lẽ ít nước có được hệ thống chính trị ổn định như vậy. Đó là nền tảng vững chắc để làm kinh tế, làm mọi thứ.
Thứ ba là vị thế quốc tế và chính sách ngoại giao. Bây giờ ít có nước nào có được vị thế quốc tế thuận lợi như Việt Nam. Mình gần như hợp tác được với tất cả các nước, mọi tổ chức, có thể làm ăn được với tất cả mọi nơi. Có lẽ chưa bao giờ chúng ta có thể làm ăn với tất cả các nước như bây giờ. Đó là một nền tảng hết sức quan trọng. Bởi vì thực chất chúng ta có thể sản xuất rất nhiều, cái chúng ta cần là thị trường. Bây giờ người nông dân có thể sản xuất bất cứ hoa quả gì, có thể sản xuất số lượng lớn, nhưng vấn đề là có thị trường. Ta có 16 hiệp định thương mại tự do với các nước. Đó là một nền tảng quan trọng.
Một nền tảng TS. Đáng nêu ra là lòng người, đó là cảm hứng của cả một dân tộc. Niềm tự hào dân tộc được khơi dậy. Thực chất đó cũng là sức mạnh rất lớn. Dân tộc Việt Nam đang khơi gợi lại niềm tự hào và ý chí vươn lên.
Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới hiện được xác định là Đại hội XIV của Đảng. Chúng ta cần tiếp tục có sự chuẩn bị như thế nào để sẵn sàng tâm thế bước vào kỷ nguyên mới? Xin được mời PGS.TS Trần Đình Thiên trả lời câu hỏi này. Đồng thời, ông phân tích, bình luận rõ thêm về tính tất yếu khách quan, tính định hướng, dẫn dắt của Tổng Bí thư liên quan đến đích đến của kỷ nguyên vươn mình cũng như cơ sở định vị mục tiêu đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới.
PGS.TS. Trần Đình Thiên trao đổi tại Tọa đàm - Ảnh: VGP/Kim Liên
PGS.TS. Trần Đình Thiên: Câu hỏi rất thực tiễn. Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới hiện được xác định là Đại hội XIV của Đảng; cái này có giá trị định vị. Đó là một sự kiện đánh dấu. Tôi nghĩ đây là một lựa chọn mang tính chất định mốc hành động để phân biệt. Không phải là khi đến đấy chúng ta mới thực sự làm, ngày mùng 1/1 chúng ta bắt đầu làm; không hẳn như vậy. Tuy nhiên, để mà làm rõ điều này, tôi trở lại với ý kiến của các khách mời nói về khái niệm kỷ nguyên mới. Kỷ nguyên mới bao giờ cũng được đặc trưng bằng những tính chất, đặc điểm. Nó định hình một chân dung thời đại cho chúng ta bước vào. Nhưng kỷ nguyên mới của ta có cái khác, đó là "kỷ nguyên vươn mình", tức là một cái kỷ nguyên hành động, tính hành động rất mạnh. TS. Nguyễn Văn Đáng có giải thích tại sao có từ "vươn mình" ở đây. Nó khẳng định rằng ở đây không phải chúng ta định hình một chân dung của thời đại chúng ta sẽ bước vào, mà đây là một thời đại chúng ta sẽ hành động, "vươn mình" khác thường. Chúng ta không đi theo cái thông thường như từ xưa đến nay mà chúng ta "vươn mình". Đất nước đã từng vươn mình nhưng chúng ta sẽ có những cái hành động khác thường để đạt tới những mục tiêu khác thường.
Ở đây, kỷ nguyên mới được xác định bằng những mục tiêu khác thường. Một đất nước với trình độ thu nhập trung bình, phát triển chưa cao nhưng đặt ra những mục tiêu về chuyển đổi số, về thông minh, về phát triển xanh... những mục tiêu cao nhất của loài người. Rồi cách đặt vấn đề dựa vào trí tuệ sáng tạo, thông minh là chính. Đấy là những điều rất cao. Và như vậy đòi hỏi chúng ta phải đúng là kỷ nguyên hành động khác thường.
Có thể nói từ khi đưa ra thông điệp ấy, cũng có nghĩa là chúng ta đã bắt đầu hành động rồi, chứ không phải đến mốc đó chúng ta mới bắt đầu. Tuy nhiên, phấn đấu cho một điều gì đó rất đẹp đẽ thì chắc chắn rất khó. Rất khó thì phải chuẩn bị. Việc lựa chọn mốc Đại hội XIV có ý nghĩa như vậy.
Câu hỏi là chúng ta cần tiếp tục chuẩn bị như thế nào? Việc đó rất quan trọng. Bởi vì nếu mà chúng ta không chuẩn bị đầy đủ về tư duy, về thái độ, về những điều kiện, nguồn lực thì có khi chúng ta lại biến thông điệp đó thành một mơ ước, thành mộng tưởng mà có khi hành động không đủ thì biến thành hoang tưởng. Chúng ta phải đặt vấn đề như thế cho chặt chẽ, logic. Vậy chúng ta phải làm thế nào?
Có lẽ Đại hội XIV của Đảng gắn với một sự kiện đánh dấu nữa. Đó là 40 năm chúng ta đổi mới, đạt được những thành tựu rất lớn, phải nói là những thành tựu chưa từng thấy, chưa từng có. Trong đó có một thành tựu rất ý nghĩa để chúng ta tiếp tục, đó là chúng ta đã chọn được xu thế phát triển và những việc không thể đạt được. Tức là chúng ta khẳng định sự đúng đắn của con đường đi và chính sự đúng đắn bảo đảm cho những thành tựu.
Bây giờ chúng ta tiếp tục điều ấy như thế nào? 40 năm đủ cho chúng ta phát hiện ra bản thân mình. PGS. Đào Duy Quát có nói "vượt qua chính mình", tức là ta phát hiện ra bản thân mình, cái thực lực, cái đà, cái thế ngay lúc đó nhưng cũng đủ cho một bước nhảy vào tương lai không? Có lẽ còn thiếu rất nhiều.
Thứ hai, 40 năm cũng cho thấy có nhiều vấn đề phải giải quyết, nhiều vấn đề còn tồn đọng, nhiều yếu kém và thậm chí là điểm nghẽn của điểm nghẽn chứ không còn là một điểm nghẽn thông thường. Chúng ta nói "ba điểm nghẽn" nhưng bây giờ trong ba điểm nghẽn ấy, có "điểm nghẽn của điểm nghẽn". Tức là chúng ta nhận diện được vấn đề mấu chốt phải tự vượt qua và nếu không vượt qua thì chẳng có kỷ nguyên nào cả, chẳng có vươn mình. Tôi cho là việc chuẩn bị về mặt tâm thế, cho Đại hội XIV chính là chuẩn bị những chuyện như vậy, tức là một tầm nhìn, một tư duy phát triển, định vị bản thân mình cho chuẩn, đối diện với một tương lai mà chúng ta đã xác định đường nét lớn của nó. Đây là những ý của Tổng Bí thư, của Đảng và Nhà nước hiện nay đang triển khai rất nhiều mặt để làm rõ, chuẩn bị cho bước chuyển như vậy.
Logic dẫn dắt của Tổng Bí thư trong chuyện này như thế nào? Tôi thấy có 2 tuyến vấn đề.
Thứ nhất là cách đặt vấn đề chúng ta phải vượt qua chính mình, vượt qua hiện tại như thế nào và thứ hai là chúng ta phải tạo ra chân dung mới của mình khác hẳn như thế nào? Thoát khỏi cái cũ chưa chắc ông đã có cái mới. Và thoát khỏi cái cũ có cái khó chứ không dễ một tí nào. Chúng ta biết là bỏ cơ chế xin-cho khó như thế nào, vẫn còn nhiều lắm, vẫn còn nặng nề lắm. Chưa bỏ được cái ấy thì chẳng có cái mới nào thay cả. Ví dụ như vậy. Ở đây là vượt qua cái cũ và kiến tạo cái mới. Nghị quyết 57 vừa rồi liên quan đến khoa học công nghệ chính là hình dung tương lai, hình dung chúng ta cần phải làm gì. Một cấu trúc thể chế như thế nào cho khoa học công nghệ, cho đổi mới sáng tạo, cho xã hội số, xã hội xanh? Hai việc đó là việc cần phải chuẩn bị từ bây giờ để cái khung cấu trúc, khung thể chế cho sự vận hành vượt cái cũ mà xây mới.
Thứ hai là khi đưa ra những thông điệp đó, Tổng Bí thư có gắn với câu chuyện chuyển đổi số. Lực lượng sản xuất đặt ra vấn đề quan hệ sản xuất, phương thức sản xuất và việc đầu tiên, phát động đầu tiên chính là câu chuyện thay đổi, chính là thể chế Nhà nước, chính là bộ máy Nhà nước. Từ bộ máy Nhà nước mới dẫn đến con người chứ không phải là ngược lại. Lâu nay chúng ta hình như chú trọng đến cá nhân con người theo nghĩa đi chọn người nhiều hơn là thay đổi cấu trúc tổ chức. Hiện nay chính là làm bộ máy trước, cơ chế Nhà nước trước. Tôi cho rằng đấy là việc phải thoát khỏi chính mình, tiên phong dẫn dắt thì sẽ gỡ ra. Đó là một hình mẫu cho sự phát triển của xã hội, đúng với logic của Marx nói: "Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất", hay gọi là kiến trúc thượng tầng. Bây giờ phải xử lý vấn đề theo một logic ngược, từ cấu trúc Nhà nước xuống đến củng cố quan hệ sản xuất mới và thúc đẩy lực lượng sản xuất. Logic ấy tôi cho là rất đúng. Cách đặt vấn đề xử lý tổ chức bộ máy như là sự chuẩn bị cho Đại hội XIV rất đặc biệt, quan trọng và có ý nghĩa. Một thách thức rất lớn nhưng tạo ra cảm hứng chính ở chỗ này. Tôi cho là cảm hứng mạnh nhất chính là ở chỗ này. Hiện nay nó đang diễn ra một cách thành công bởi nó tạo ra được lòng tin, sự cộng hưởng và đồng thuận quốc gia rất mạnh.
Tôi lại nói lại Nghị quyết 57 như một biểu tượng, tức là bàn đến những câu chuyện gắn những cam kết quốc gia với quốc tế. Chúng ta cam kết là một quốc gia phát thải zero và carbon vào năm 2050, rồi trở thành một đất nước chuyển đổi số, xã hội số, kinh tế số, một Nhà nước số. Rồi là một thực thể hay là thế lực bán dẫn, AI hùng mạnh. Chúng ta đang đặt ra mục tiêu như vậy. Cần phải làm như thế nào? Mấy năm nay chúng ta đang triển khai tất cả, từ tổng thể hệ thống hạ tầng, hạ tầng cứng, hạ tầng mềm, rồi nguồn nhân lực cho tương lai. Hai vế ấy đang được triển khai rất tích cực để định hình một Chiến lược hành động vào năm 2024. Tôi nghĩ rằng đấy là chiến lược để nhảy vào tương lai, để có những hành động khác thường đúng như chúng ta đã xác định: Kỷ nguyên mới chính là kỷ nguyên hành động khác thường.
09:42 ngày 27/12/2024
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Kỷ nguyên vươn mình là vượt qua chính mình. Đất nước chúng ta đã nhiều lần vượt qua chính mình và đã thành công như việc chúng ta đã "đoạn tuyệt" được với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chúng ta thực hiện ĐỔI MỚI và đang "tấn công" cơ chế "xin-cho". Tôi nghĩ rằng với sự vươn lên, vượt lên chính mình thì cơ chế "xin-cho" sẽ được xử lý trong thời gian sớm để bước vào kỷ nguyên mới.
Tôi thấy PGS.TS. Trần Đình Thiên có ý rất hay là chuẩn bị Đại hội Đảng toàn quốc sắp tới được coi là mốc khởi đầu bước vào kỷ nguyên mới. Bởi vì Đại hội Đảng hợp thức hóa thành Nghị quyết, thành những chủ trương lớn và những việc chúng ta thúc đẩy là chuẩn bị từ bây giờ. Chúng ta có niềm tin là những gì chúng ta làm bây giờ đang đi đúng hướng. Chúng ta vượt lên chính mình và quan trọng nhất là cải cách bộ máy. Nói về thể chế thì bộ máy là quan trọng nhất. Thể chế bao gồm các thiết chế, pháp luật là hệ điều hành các thiết chế đó. Cải cách bộ máy chính là động chạm vào hệ thống đầu tiên.
Nghị quyết mới của Bộ Chính trị về phát triển KHCN và chuyển đổi số của đất nước đang đi theo xu hướng của thời đại, đi theo hướng phát huy lợi thế cạnh tranh. Một trong những lợi thế cạnh tranh lớn nhất của chúng ta là "cái đầu" của người Việt, tư duy của người Việt. Với cuộc cách mạng này, chúng ta vừa đi đúng hướng của thời đại, vừa phát huy thế mạnh của người Việt. Đối với cuộc cách mạng lần thứ 4, cuộc cách mạng số và trí tuệ nhân tạo, chúng ta đang bắt kịp định hướng của thời đại. Chúng ta không lỡ nhịp và chúng ta đi theo mô hình mà Việt Nam có thể phát huy được thế mạnh. Đó là mô hình Nhà nước kiến tạo và phát triển. Đảng, Nhà nước dẫn dắt chứ không phải thị trường dẫn dắt. Đó là nền tảng để chúng ta có rất nhiều hy vọng.
Các nội dung liên quan đến kỷ nguyên mới từ đầu tọa đàm đã được các vị khách mời phân tích khá tường tận, đa chiều. Thưa GS.TS. Vũ Minh Khương, từ quan sát của ông, với những bài học thành công và thất bại của các quốc gia, với bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay, ông đánh giá như thế nào về những thông điệp và định hướng của Tổng Bí thư Tô Lâm? Theo ông, những điểm nhấn phát triển nổi bật trong nhiệm kỳ này là gì?
GS.TS. Vũ Minh Khương tham dự Tọa đàm trực tuyến từ Singapore - Ảnh: VGP
GS.TS. Vũ Minh Khương: Các ý kiến được trình bày rất toàn diện và sắc bén. Từ Singapore, tôi muốn chia sẻ suy nghĩ của bản thân. Đó là thông điệp của Tổng Bí thư Tô Lâm vừa có tính chiến lược, vừa có tính đột phá. Tính chiến lược là sự lựa chọn quả cảm đưa đất nước tiến lên ở mức độ cao vượt bậc trong thời gian tới. Rõ ràng, ngày mai chúng ta phải nhìn lại những gì đã làm ngày hôm nay. Lựa chọn của người lãnh đạo rất quan trọng, quyết định một dân tộc đi lên hay đi xuống, đi lên nhanh hay đi lên bao xa... phải quyết định đúng đắn. Quyết định sai thì đi xuống và đi xuống nhanh, xuống xa. Đó là thực tế nghiên cứu từ lịch sử của nhân loại cũng như thực tiễn gần đây của chúng ta. Tính chiến lược trong thông điệp của Tổng Bí thư Tô Lâm và lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam trong thời gian vừa qua là rất đáng quý, có những điều rất kỳ vĩ. Ở Singapore, chúng tôi rất trân trọng.
Thứ hai là tính đột phá: Ba thuộc tính của đột phá tôi nhận thấy rất hay. Thứ nhất là đánh vào xúc cảm của con người, làm cho lòng người trỗi dậy. Tôi thấy lần đầu tiên người Việt Nam như tìm thấy "nỏ thần" của mình, đó là tinh thần dân tộc muôn người như một. Điểm thứ hai là chúng ta nắm xu thế của thời đại. Thời đại đi nhanh và chúng ta nắm rất nhanh, giống như xuôi chiều gió để đi. Thuộc tính thứ ba của đột phá là chọn thiết chế, để tạo ra sức mạnh cộng hưởng, sức mạnh nội sinh, càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng. Đó là tinh thần của Điện Biên Phủ.
Thông điệp của Tổng Bí thư rất rõ ràng. Điểm đặc sắc trong thông điệp của Tổng Bí thư không chỉ là nội dung mà còn cả hành động. Cuộc điện đàm của Tổng Bí thư với Thủ tướng Singapore tuần trước rất ấn tượng. Lãnh đạo Singapore rất trân trọng và mời Tổng Bí thư sang thăm Singapore trong thời gian sớm nhất. Hay các chuyến thăm của Tổng Bí thư sang các nước thể hiện một nhà lãnh đạo vì dân vì nước, nỗ lực mở ra kỷ nguyên mới. Người Việt Nam ở xa Tổ quốc như tôi cảm thấy vô cùng tự hào và có niềm tin.
Có bốn đặc trưng để đưa một dân tộc đi đến thành công: Trước hết là xúc cảm dân tộc. Nói về kỷ nguyên mới, tôi muốn lựa chọn ngày 1/12 khi Tổng Bí thư phát biểu tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18/NQ-TƯ trực tiếp đến 14.500 điểm cầu và 1,3 triệu cán bộ, đảng viên tham dự. Đây là thông điệp rất lớn của Việt Nam. Đây cũng là câu chuyện kỳ vĩ, dấu mốc để lịch sử và thế hệ tương lai ghi nhận.
Tiếp theo là tính khai sáng. Các cuộc cải cách của các nước đều coi trọng sự khai sáng, nắm bắt xu thế thời đại. Tôi rất mong một ngày nào đó, Việt Nam trở thành tâm điểm, là ngọn hải đăng để thế giới học hỏi.
Điểm thứ ba chúng ta đang cùng bàn để tiến lên phía trước là cải cách xây dựng bộ máy công quyền ưu tú.
Điểm thứ tư là kiến tạo. bằng những hành động cụ thể. Ví dụ như việc khai trương tuyến tàu điện ngầm ở TPHCM tạo ra khí thế phấn khởi trong nhân dân. Mỗi công trình như vậy là sự giáo dục vô giá, chúng ta đầu tư giáo dục bằng chính những hành động cụ thể, bằng những công trình cụ thể.
Tôi muốn nhấn mạnh thêm về chữ "vươn mình". "Vươn mình" khiến tôi liên tưởng đến hình tượng Thánh Gióng và liên quan đến 3 điểm của Thánh Gióng. Thứ nhất là phải tìm đến người tài, vượt ra khỏi suy nghĩ thông thường, phải suy nghĩ đột phá; thứ hai là phải dựa vào dân; thứ ba là dựa vào thế hệ trẻ. Tính thực tế của Việt Nam trong hai thập kỷ tới hoàn toàn có thể đạt được, vì chúng ta đã có vị thế và tiềm lực rất tốt. Việt Nam chuẩn bị khá tốt để bước vào công cuộc này. Tuy nhiên, cũng không hề đơn giản vì có nhiều vấn đề chúng ta phải vượt qua. Khi thực hiện cải cách quyết liệt, cần phải rất chú ý đầu ra và kết quả hơn là nguồn cung. Những tiêu chí đã rất rõ, lòng dân có tăng lên không, năng suất lao động tăng lên, môi trường trong sạch hơn... tất cả đều phải đo kết quả đầu ra để dân tộc đi đến phồn vinh, tiến tới mốc 2045. Đây là những việc chúng ta có thể đo đếm được để so sánh. Một ví dụ tôi thấy rất hay là việc đưa Nguyễn Xuân Son vào đội tuyển quốc gia Việt Nam. Điều đó làm cho mọi người cảm thấy có trách nhiệm với quê hương, đất nước và cũng tự vươn lên học tập người giỏi. Cũng như việc chúng ta mời gọi các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam để cộng hưởng hơn trong bối cảnh của từng lĩnh vực cụ thể.
10:01 ngày 27/12/2024
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: GS. Vũ Minh Khương đã đưa ra thông điệp rất truyền cảm hứng, cũng như những vấn đề rất hay và đáng quan tâm. Thực chất thông điệp, tầm nhìn của Tổng Bí thư về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, theo GS. Khương đạt được mấy thứ.
Thứ nhất là truyền cảm hứng, gọi là năng lực cảm hứng của cả dân tộc, cảm xúc của dân tộc. Đánh giá này tôi nghĩ là đúng. Có lẽ chúng ta ngồi đây trong lòng cũng rạo rực khi dân tộc mình đến kỷ nguyên vươn mình.
Tiếp theo là đi cùng thời đại, bước cùng thời đại. Chúng ta đang bước cùng thời đại. Nếu trên thế giới mọi người sử dụng Gemini, ChatGPT thì chúng ta đều có trong điện thoại của mình.
Tôi cũng định nói đến hình tượng Thánh Gióng. Đúng là có rất nhiều thông điệp gắn với hình tượng của Thánh Gióng. Vươn mình là phải vươn mình như Thánh Gióng, cái đó nằm trong văn hóa, trong kỳ tích của dân tộc mình, là một thông điệp. Ý thứ hai mà GS. Khương cũng gửi gắm qua hình tượng Thánh Gióng là phải tin tưởng lớp trẻ, những người đưa điện thoại hay phần mềm là làm được luôn, không phải hướng dẫn đến vài tiếng đồng hồ mà không làm được. Thánh Gióng rất trẻ, thành thử tin tưởng lớp trẻ rất quan trọng. Ý thứ ba là sự ủng hộ, đóng góp của dân. Bây giờ nếu cứ dựa vào đầu tư công quả thực rất khó, tiền ngân sách chúng ta có hạn. Nuôi Thánh Gióng phải tất cả dân làng, mọi người đều góp cơm gạo.
Rõ ràng muốn tăng tốc bức phá trong kỷ nguyên mới thì vai trò lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa tiên quyết. Từ khi thành lập Đảng đến bây giờ chúng ta thấy vai trò của Đảng rất quan trọng, từ đổi mới đến các quyết sách gắn liền với sự phát triển của Đảng. Tuy nhiên thực tiễn cách mạng cho thấy, trong mỗi giai đoạn mới cũng đặt ra yêu cầu mới. Xin được hỏi PGS.TS Đào Duy Quát, thời đại vươn mình đang đặt ra những vấn đề và đòi hỏi như thế nào đối với Đảng trong đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu, bảo đảm Đảng là người cầm lái vĩ đại, thực sự là hạt nhân trí tuệ trong bộ máy lãnh đạo, cầm quyền?
PGS.TS. Đào Duy Quát tại Tọa đàm - Ảnh: VGP/Kim Liên
PGS.TS. Đào Duy Quát: Trong lịch sử 94 năm qua đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng mới là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Tôi muốn nhấn "sự lãnh đạo đúng, trúng" chứ không phải lãnh đạo chung chung. Cách đặt vấn đề của TS. Nguyễn Sĩ Dũng rất quan trọng, đây là vấn đề cốt tử. Đúng là tất cả khát vọng vươn mình của cả dân tộc để đạt được mục tiêu lịch sử vào năm 2045, thì nhân tố phải quan tâm hàng đầu là Đảng ta phải tự vươn mình lên, tự xây dựng và chỉnh đốn để thực sự trở thành Đảng của trí tuệ, Đảng của đạo đức, Đảng gắn bó máu thịt với nhân dân, với dân tộc. Gần đây, Tổng Bí thư Tô Lâm cũng nhấn rất kỹ việc xây dựng, chính đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt trong khi đặt nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm. Chúng ta đều biết xây dựng Đảng phải cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, cả về tổ chức, cán bộ, Đảng phải mạnh trên tất cả các lĩnh vực.
Nếu Đảng mạnh về chính trị tức là quyết định đúng, và tổ chức thực hiện tốt thì có sức thuyết phục để tạo sự nhất trí trong toàn Đảng và tạo sự đồng thuận trong toàn dân, tập hợp được sức mạnh của toàn dân tộc.
Xây dựng Đảng về đạo đức là thực sự phải là tấm gương về đạo đức, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Chúng ta thấy khóa XIII xử lý rất nhiều cán bộ đảng viên các cấp, kể cả cán bộ chủ chốt vi phạm kỷ luật phải xử lý. Thứ hai, trước đây lấy người để bố trí việc nên bộ máy cứ phình ra liên tục. Rõ ràng vấn đề đặt ra hàng đầu là Đảng phải tự chỉnh đốn mình quyết liệt, đồng bộ để thực sự trở thành bộ tham mưu chính trị, là trí tuệ, là văn minh như Bác Hồ nói.
Trước hết trong sự nghiệp xây dựng Đảng, lần này phải tiến hành đồng bộ tất cả các việc đó, thực hiện Nghị quyết XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và kết luận của Trung ương khóa XIII về việc này. Đảng phải tự đổi mới phương thức lãnh đạo của mình, không thể lãnh đạo theo cách cũ nữa, bởi vì tình hình mới, yêu cầu mới, khát vọng rất cao, mục tiêu nhiệm vụ rất lớn và đối tượng lãnh đạo cũng ở một trình độ rất mới và có điều kiện rất khác. Bây giờ không đổi mới phương thức lãnh đạo của mình, vẫn còn bao biện, vẫn còn làm thay, buông lỏng, vẫn còn không thuyết phục rồi không là tấm gương thì không thể đưa dân tộc vươn mình trong kỷ nguyên mới.
Vấn đề rất lớn hiện nay được đặt ra cấp thiết cùng với quá trình "vừa chạy vừa xếp hàng" về cải cách tinh gọn bộ máy, thì cũng phải làm rất quyết liệt, rất khẩn trương việc đổi mới phương thức lãnh đạo của từng cấp ủy, của từng bí thư đến từng đảng viên, từng tổ chức đảng. Phương thức lãnh đạo là phương thức cơ bản, là nguyên tắc cơ bản xác định phương thức lãnh đạo là Đảng lãnh đạo bằng cách quyết định cương lĩnh, đường lối, chính sách. Sau khi quyết định thì thuyết phục và nêu gương thực hiện. Đảng lãnh đạo bằng kiểm tra hệ thống chính trị trong tổ chức thực hiện đường lối, Đảng không làm thay. Sau khi quyết định, thuyết phục người ta nhất trí, tự giác, tự nguyện thực hiện thì Đảng phải lãnh đạo để hệ thống cơ quan nhà nước thể chế hóa nghị quyết ấy bằng luật, nghị định, bằng các cơ chế chính sách.
Và một phương thức lãnh đạo rất quan trọng là thuyết phục, nêu gương. Hiện nay muốn lãnh đạo để toàn Đảng một ý chí, toàn dân đồng thuận với nhiệm vụ khổng lồ là vươn mình trong kỷ nguyên mới, thì theo tôi phải đổi mới phương thức lãnh đạo công tác tư tưởng. Phải thực sự nắm được tâm tư, tình cảm, những bức xúc cụ thể của từng ngành, từng cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tổng Bí thư đã nói ngay từ khi Đảng ra nghị quyết phải rất ngắn gọn, rõ vấn đề phải làm, rõ ý nghĩa, rõ cách làm. Và khi truyền đạt, người truyền đạt phải nói rõ cả tư tưởng, tình cảm để truyền được cảm xúc. Chúng ta có cả hệ thống tư tưởng, binh chủng tư tưởng rất lớn như hệ thống các trường chính trị, hệ thống báo chí truyền thông, hệ thống báo cáo viên. Nếu thực sự có chất lượng, biết truyền cảm hứng và đặc biệt mọi đảng viên biết thuyết phục, biết nêu gương trước quần chúng thì tôi nghĩ đổi mới phương thức hiệu quả.
Hiện nay tinh gọn bộ máy là cuộc cách mạng nhưng tôi nhấn luôn là bộ máy này được tinh gọn không thể cơ học. Tôi rất đồng tình là không nên cơ học rút được bao nhiêu mà phải thực sự tổ chức một bộ, một cục, một vụ hợp lý, phù hợp với thực tiễn hiện đang diễn ra và có một cơ chế vận hành hiệu quả. Theo tôi giảm đầu mối chỉ là cách cơ học. Cần tập trung phương thức lãnh đạo để chúng ta tinh gọn một cách khoa học, để có bộ máy với cơ chế vận hành trơn tru, chứ không phải để có các đầu mối dẫn đến nhiều tầng nấc, cản trở các địa phương, các cấp, các doanh nghiệp.
Ý thứ hai là tinh giản rồi, nhất là tinh giản bộ máy con người thì đáng lo nhất hiện nay là người giỏi, người tốt có khi lại ra và người lười biếng, bất tài ở lại. Tổng Bí thư trong bài nói có nhắc mấy câu của Lenin "Tôi sẵn sàng đánh đổi hàng chục anh Bolsevik kiêu ngạo để lấy một chuyên gia tư sản".
Tôi rất đồng tình ý của các ông Vũ Minh Khương và Nguyễn Sĩ Dũng. Đúng là hiện nay trong thời đại công nghiệp 4.0, đòi hỏi rất nhiều tài năng công nghệ, thế nên lãnh đạo lực lượng này không nhất thiết phải là đảng viên, phải là tri thức giỏi, yêu nước. Trong tổ chức bộ máy cán bộ ở một số lĩnh vực, kể cả giáo dục khoa học, cứ phải lên cấp vụ nên bộ máy không thể thu được tài năng. Ngay ngành tư tưởng, công tác tư tưởng cũng là một nghề, một ngành khoa học nên phải được đào tạo. Bác Hồ trước đây đã tập hợp rất nhiều nhân tài không phải đảng viên mà có công xây dựng nhà nước phát triển, vượt qua thử thách, lập những chiến công.
Tôi muốn nói lại, trọng tâm hiện nay là Đảng này phải tự đổi mới và chỉnh đốn, phải tự vươn mình lên cho xứng tầm lãnh đạo một dân tộc, để thực hiện cho được khát vọng. Tự đổi mới và chỉnh đốn cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Trên hết phải đổi mới phương thức lãnh đạo, ra nghị quyết cho trúng, cho đúng và đọc dễ hiểu. Khi truyền đạt, quán triệt thì đi vào lòng người. Thứ hai, phương thức lãnh đạo về cán bộ là một khoa học, phải để bộ máy tinh gọn nhưng vận hành trơn tru, có hiệu lực, hiệu quả. Cuối cùng chọn con người thì lấy các nhiệm vụ, công việc của từng vị trí để chọn người có đức, có tài đáp ứng nhiệm vụ, thậm chí không nhất thiết phải là đảng viên.
10:20 ngày 27/12/2024
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: PGS. Đào Duy Quát nêu vấn đề rất sâu. Tóm lại, phải đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là phương thức lãnh đạo, trong đó Đảng lãnh đạo nhưng không làm thay, lãnh đạo bằng cương lĩnh, chủ trương, đường lối và những chính sách lớn. Và quan trọng là giám sát và kiểm tra. Còn muốn lãnh đạo lôi cuốn, thuyết phục thì phải tiêu biểu về đạo đức và có kỹ năng thuyết phục chứ không phải ra lệnh.
Ngoài ra, rõ ràng muốn lãnh đạo thì phải tập trung được người tài trong Đảng. Tôi nghĩ nếu Đảng quyết định chủ trương, chính sách thì người tài trong Đảng phải là những chính khách tài giỏi, người có tầm nhìn đúng, biết xác lập ưu tiên của dân tộc, thúc đẩy những chính sách đưa lại sự vươn mình mạnh mẽ của dân tộc. Những người đó nên ở trong bộ máy lãnh đạo Đảng.
Rõ ràng, có những vị trí cần những nhà kỹ trị. Chính sách thì phải từ những người lãnh đạo của Đảng còn thực thi chính sách thì phải là những nhà kỹ trị và các nhà kỹ trị phải có chuyên môn và phải giỏi. Ví dụ, AI, Internet vạn vật giao cho người nói đường lối chung chung thì rất khó, phải là những chuyên gia trong lĩnh vực đó. Công tác cán bộ đang chuyển động theo hướng như vậy.
Vấn đề con người, công tác tổ chức cán bộ luôn là yếu tố quyết định. Hiện nay, các cấp, các ngành đang tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về "Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả"; đẩy mạnh sắp xếp, triển khai tinh gọn tổ chức bộ máy theo tinh thần chỉ đạo của Trung ương. Thưa TS. Nguyễn Văn Đáng, các hoạt động này có ý nghĩa như thế nào về mặt chiến lược trong bảo đảm hiệu lực, hiệu năng, hiệu quả hoạt động, chỉ đạo, điều hành của bộ máy chính quyền nhà nước để đất nước cất cánh, vững bước tiến lên trong kỷ vươn mình? Những điều cần lưu ý là gì?
TS. Nguyễn Văn Đáng: Cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy, yếu tố quyết định thành công không chỉ là tinh gọn về bộ máy. Đó chỉ là điều kiện cần nhưng điều kiện đủ là phải tuyển chọn và bố trí lại con người đúng người, đúng việc, đúng khả năng - Ảnh: VGP/Kim Liên
TS. Nguyễn Văn Đáng: Một sự kiện đang diễn ra rất quyết liệt trên phạm vi cả nước là cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy. Nó rất có ý nghĩa và phải đặt nó trong việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Tôi muốn có thêm một vài ý kiến liên quan đến đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Đây là yêu cầu mà Đảng đã đặt ra trong đại hội gần đây. Tuy nhiên thời gian gần đây, chúng ta thấy biểu hiện của sự đổi mới thực sự diễn ra và giúp nâng vị thế uy tín của Đảng trong xã hội rất rõ. Ví dụ, trong năm 2024, người dân truyền tai nhau hay bình luận ủng hộ những phát ngôn của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng như "Danh dự mới là điều thiêng liêng nhất". Khi người lãnh đạo cao nhất của Đảng có phát ngôn như vậy thì sẽ truyền cảm hứng giúp mỗi cán bộ đảng viên ý thức được rằng: Khác với những người bình thường là làm việc vì lợi ích của mình, cán bộ trong hệ thống chính trị nói chung, đặc biệt là bộ máy công quyền, làm để phục vụ lợi ích của người khác, thế nên không thể để lợi ích cá nhân chi phối, phải đề cao danh dự. Hay gần đây, Tổng Bí thư Tô Lâm nói đến cụm từ "kỷ nguyên mới", "kỷ nguyên vươn mình của dân tộc" cũng rất được người dân ủng hộ. Thực ra tinh thần đột phá phát triển đã được ghi trong văn kiện Đại hội XIII về "khơi dậy khát vọng phát triển". Nhưng khi Tổng Bí thư Tô Lâm chuyển thành cụm từ mới hơn, "kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc", thì rõ ràng thuyết phục và được nhân dân chú ý hơn. Dù chỉ là phát ngôn nhưng cho thấy những nét mới mẻ trong vai trò lãnh đạo của Đảng.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới này rõ ràng là một yêu cầu rất bức thiết. Khi chúng ta thực hiện Cách mạng tháng 8, lực lượng xã hội, đặc điểm xã hội lúc ấy khác. Khi chúng ta Đổi mới, bối cảnh cũng khác. Bây giờ chúng ta đang hướng đến kỷ nguyên mới thì rõ ràng bối cảnh trong nước quốc tế cũng như đặc điểm xã hội khác hoàn toàn so với trước đây.
Để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới, tôi cũng rất đồng ý với một số ý kiến của GS. Vũ Minh Khương. Tôi nhấn mạnh rằng chúng ta cần quan tâm chính là Đảng phải luôn nắm bắt được các xu thế của thời đại, thể hiện qua sự tiến bộ về nhận thức của Đảng, thể hiện qua chủ trương đường lối lãnh đạo truyền cảm hứng cho các lực lượng trong xã hội, và thứ bà là phải chuyển hóa thành hành động quyết liệt từ lãnh đạo cấp cao nhất cho tới cấp cơ sở. Ba cấu phần ấy kết hợp được với nhau thì chắc chắn Đảng sẽ đổi mới được phương thức lãnh đạo trong tình hình mới hiện nay.
Một trong những nét mới trong vai trò lãnh đạo của Đảng mà chúng ta đang chứng kiến và được người dân, cán bộ Đảng viên rất đồng tình ủng hộ là chúng ta đang quyết liệt thực hiện cuộc cách mạng thần tốc liên quan đến tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị. Kế hoạch đã được Ban Chỉ đạo Trung ương ban hành và hiện nay các cơ quan đang triển khai mạnh mẽ trên phạm vi cả nước, đặc biệt là các cơ quan Trung ương. Trung ương đi đầu, làm gương, "vừa chạy vừa xếp hàng", các địa phương cứ thế làm, không đợi Trung ương. Chúng ta đang cho thấy sự chuyển động vô cùng mãnh liệt. Hệ thống chính trị Việt Nam đang truyền cảm hứng dẫn dắt sự thay đổi ở Việt Nam theo hướng tích cực hơn.
Rõ ràng Đảng đang làm rất tốt vai trò lãnh đạo, đề ra tầm nhìn lãnh đạo. Cụ thể, đến năm 2045, đưa Việt Nam trở thành nước phát triển. Tầm nhìn lãnh đạo ấy thuyết phục được người dân, người dân đang rất kỳ vọng. Vậy câu hỏi tiếp theo là lực lượng nào sẽ thực hiện tầm nhìn lãnh đạo ấy? Công cụ và phương tiện nào để chúng ta hiện thực hóa được mục tiêu lãnh đạo ấy?
Trong nhiều lực lượng, trong nhiều phương tiện công cụ, đầu tiên là hệ thống chính trị. Bởi vì hệ thống chính trị là nơi đề ra các chủ trương lãnh đạo, hoạch định và thực thi chính sách. Tất cả những hoạt động ấy là hệ thống chính trị. Chính những cái đó sẽ tác động đến các lực lượng khác trong xã hội và có thể chuyển hóa những nguồn lực quốc gia để trở thành kết quả cụ thể liên quan đến tầm nhìn lãnh đạo đến năm 2045.
Cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy hiện nay chúng ta đang làm rất thần tốc dù cũng có những ý kiến lo ngại là chúng ta không chỉ tinh giản cơ học. Điều đó rất đúng. Nhưng đấy là đầu mối về tổ chức, là cái đầu tiên chúng ta làm được. Trong Nghị quyết 18 ban hành từ năm 2017 cũng như trong các văn bản gần đây chỉ đạo, rõ ràng chúng ta không hề làm cơ học. Đợt này tinh gọn cả về tổ chức bộ máy, cả về con người, cả về cơ chế, nguyên tắc hoạt động. Chính vì thế trong phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm có nói rõ là Đảng tránh bao biện, làm thay. Sau đó là không buông lỏng vai trò lãnh đạo, không có nghĩa là để các cơ quan Đảng lấn sân các cơ quan nhà nước quá sâu. Đây là vấn đề người đứng đầu Đảng đã nói rất rõ ràng. Cho nên để thực hiện thành công cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy này, cả hệ thống đang nỗ lực và tôi tin rằng có cơ sở để chúng ta kỳ vọng vào sự thành công trong thời gian tới. Và đúng như GS. Vũ Minh Khương đã nói, không đơn giản chỉ là đầu vào, vấn đề là sản phẩm đầu ra như thế nào, thể hiện ra thành tác động xã hội như thế nào, chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị, đặc biệt là hệ thống cơ quan công quyền có thực sự thay đổi, có thực sự khơi dậy khát vọng phát triển của các lực lượng phát triển trong xã hội để đóng góp vào tiến trình phát triển của quốc gia không? Đó mới là cái chúng ta kỳ vọng, chứ không phải chỉ đơn giản nhìn thấy bộ máy thu hẹp lại, số lượng nhân sự giảm bớt đi. Cái chúng ta kỳ vọng là tác động kết quả đầu ra như thế nào, thực sự có trở thành động lực để phát triển đất nước hay không.
Rõ ràng ở đây cần một tiến trình. Trước hết việc gì dễ chúng ta làm trước, còn liên quan đến chất lượng của hệ thống chính trị, chúng ta cần lộ trình tiếp theo và không phải chúng ta cách mạng đợt này xong là xong. Đó là một tiến trình phải được tiến hành thường xuyên. Ví dụ liên quan đến cải cách hành chính, phân cấp phân quyền…, đấy là những tiến trình chúng ta phải làm thường xuyên và tiếp tục. Nhu cầu cải cách, đổi mới hệ thống cơ quan công quyền hay rộng ra là hệ thống chính trị là nhu cầu thường xuyên và hệ thống chính trị ấy thích ứng được với sự biến đổi của bối cảnh xã hội trong từng giai đoạn khác nhau.
Tôi rất chia sẻ với các vị khách mời là không chỉ đơn giản ở cơ cấu bộ máy tổ chức mà cái quan trọng của hệ thống là chất lượng nhân sự. Khi tinh gọn bộ máy rồi thì những con người được bố trí vào cơ quan, hệ thống tổ chức mới như thế nào? Nghị quyết 18 đã nêu từ năm 2017 là chúng ta phải hướng đến bố trí con người phù hợp với năng lực. Nhiều người nói về người tài; thực ra người tài là khái niệm rộng và thực tế trong hệ thống chính trị phải phân định ra nhiều nhóm người tài khác nhau. Có tài năng lãnh đạo chính trị, lãnh đạo chính trị chắc chắn phải có khả năng truyền cảm hứng cho mọi người trong hệ thống chính trị cũng như trong xã hội. Tài năng trong hoạch định và thực thi chính sách thì phải là những người kỹ trị, phải có kiến thức chuyên môn về một lĩnh vực. Rõ ràng chúng ta phải phân định ra người tài như thế nào, lĩnh vực nào, ở cấp trung ương, địa phương như thế nào? Nhìn lại bài học thành công của các nước trong khu vực Đông Á thì rõ ràng lực lượng nhân sự chất lượng cao trong hệ thống cơ quan công quyền có vai trò rất rõ rệt. Tại Singapore, chế độ trọng người tài của họ rất hiệu quả, được thế giới thừa nhận. Rồi hệ thống công chức chuyên môn hóa rất tài năng của Nhật Bản. Đó đều là những nước chúng ta có thể học hỏi.
Cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy này, yếu tố quyết định thành công không chỉ là tinh gọn về bộ máy. Đó chỉ là điều kiện cần, tổ chức gọn nhẹ lại. Nhưng điều kiện đủ là phải tuyển chọn và bố trí lại con người đúng người, đúng việc, đúng khả năng của họ. Chúng ta cũng phải chú trọng việc thu hút tài năng trong hệ thống cơ quan công quyền, từ các tài năng lãnh đạo đến tài năng về hành chính chuyên môn. Tôi nhấn mạnh vai trò của yếu tố con người bởi vì rộng ra hệ thống chính trị ở Việt Nam là hệ thống quyền lực tập trung và thống nhất. Nó không phải như hệ thống ở các nước. Hệ thống thể chế có thể tự vận hành được, cuối cùng vẫn là yếu tố con người. Nếu lực lượng con người không đảm bảo yêu cầu, lại với hệ thống quyền lực tập trung và thống nhất, thì mối nguy hại chính là để cho lợi ích cá nhân, nhóm chi phối và lợi dụng hệ thống chính trị phục vụ cho lợi ích thiển cận của mình, dẫn đến xâm hại lợi ích của quốc gia, dân tộc.
10:34 ngày 27/12/2024
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Nhập hai bộ máy lại thì các chức năng của các bộ máy vẫn phải bảo đảm. Đây là một việc có kế hoạch, không phải là cắt cơ học. Tất nhiên là cũng có những vấn đề, thách thức để chọn đúng người.
Tôi muốn bổ sung thêm một ý: Thực chất thì nhiều người bảo là phải có quy trình, bước đi, nhưng kinh nghiệm thực tiễn cho thấy là nhiều việc chúng ta bàn nhiều nhưng vẫn không quyết được. Do đó, sự quyết đã ở giai đoạn chín muồi, đã quá bức bách là rất cần thiết. Sau đó, chúng ta có thể điều chỉnh nhưng cái giá là mất đi cơ hội không thể lấy lại được, đó là sự lãng phí.
Thứ hai, tinh giản bộ máy gắn với việc xử lý điểm nghẽn của điểm nghẽn. Khi có nhiều người làm nhưng không rõ ai làm việc gì thì sẽ tắc nghẽn, người này đổ cho người kia hoặc người này thì nghĩ là trách nhiệm của người kia.
Thứ ba, chúng ta muốn chọn người tài, nhưng bộ máy đã đầy thì chọn, bố trí người tài ra sao? Tôi nghĩ đây là nguyên nhân thứ ba phải làm quyết liệt.
Về nguyên nhân thứ tư, Tổng Bí thư cũng nêu, hiện ngân sách dành 70% chi cho bộ máy thì làm sao còn kinh phí chi cho đầu tư phát triển, làm sao cất cánh được? Theo tôi, bước vào kỷ nguyên mới, không có cơ sở hạ tầng thì không cất cánh được. Tôi lấy ví dụ, nếu chúng ta không có nhà máy điện hạt nhân sớm thì trung tâm dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo làm sao hoạt động được. Do đó, phải tiết kiệm tối đa để đầu tư cơ sở hạ tầng, để cất cánh trong phát triển. Anh không có đường băng, không thể cất cánh trên ruộng lầy được.
Trong 3 điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thể chế, hạ tầng và nhân lực thì thể chế là "điểm nghẽn" của "điểm nghẽn" cần phải tập trung giải quyết. Thưa PGS.TS. Trần Đình Thiên, chúng ta cần có sự thay đổi tư duy như thế nào trong công tác xây dựng pháp luật để tháo gỡ nút thắt này theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích đổi mới sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển, không để bỏ lỡ thời cơ, vận hội, cơ hội cho phát triển trong giai đoạn mới?
PGS.TS. Trần Đình Thiên: Cần thay đổi tư duy theo cái hướng trao quyền để chủ động sáng tạo - Ảnh: VGP/Kim Liên
PGS.TS. Trần Đình Thiên: Điểm nghẽn của điểm nghẽn là thể chế. Tuy nhiên tôi nghĩ rằng nếu chỉ dừng lại như thế là chưa đủ và câu hỏi là phải thay đổi tư duy như thế nào cho cách tiếp cận này?
Nếu sắp xếp bộ máy không đặt trong xu thế chung, với chức năng tổ chức thực hiện và những công việc mang tính thời đại mà bộ máy đó phải giải quyết thì sắp xếp bộ máy sẽ không đạt được yêu cầu như các anh nói. Chỉ giải quyết cơ học bộ máy thay vì có một bộ máy hiệu lực, hiệu quả thật sự.
Tại sao tôi nói như thế? Ví dụ nói điểm nghẽn của thể chế thì lâu nay chúng ta xác định có ba điểm nghẽn. Điểm khác biệt bây giờ xác định là điểm nghẽn của điểm nghẽn, không giải quyết điểm nghẽn này thì các điểm nghẽn kia cũng không giải quyết được. Tức là cái thông đầu tiên, cái thông mà quan trọng nhất cho nền kinh tế, cho xã hội. Cho nên thông tức là không có điểm nghẽn mà điểm nghẽn của nền kinh tế tập trung chính ở thể chế, nguồn lực không thông là do thể chế. Con người không thông cũng là bắt đầu từ thể chế…
Tôi nghĩ cái hay, điểm đột phá trong tư duy đầu tiên chính là việc xác định điểm nghẽn của điểm nghẽn đó, phải tập trung cao độ vào giải quyết điểm nghẽn này chứ không thể nói chung chung.
Thế cho nên chúng ta thấy rõ ràng, ví dụ như là câu chuyện đất đai, bộ máy nhà nước phải căn cứ vào thị trường đất đai để giải quyết vấn đề, khi đó, tổ chức bộ máy phải thiết kế theo theo tinh thần như vậy.
Tôi nghĩ rằng phải tôn trọng nguyên tắc thị trường, xây dựng thể chế theo đòi hỏi của thị trường và phục vụ thị trường thì lúc đó là mới giải phóng được nguồn lực.
Cách đặt vấn đề của chúng ta là phát huy trí tuệ, là nhân tài nhưng nếu một nền kinh tế thiếu cạnh tranh, có phân biệt đối xử giữa các khu vực doanh nghiệp, cơ chế xin - cho vẫn chi phối thì làm sao phát huy được trí tuệ sáng tạo.
Điều này đặt vấn đề về giải phóng thể chế. Có một điểm then chốt là việc địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm. Đây là thông điệp về trao quyền để chủ động sáng tạo, không phải là để tự tung, tự tác mà trao quyền là để các chủ thể chủ động sáng tạo. Trao quyền gắn với trách nhiệm thì người ta sẽ hành động theo đúng luật.
Ý thứ hai mà tôi muốn nói là thay đổi tư duy theo cái hướng trao quyền để chủ động sáng tạo.
Thứ ba, phải theo cái xu thế thời đại, hướng tới tương lai. Ví dụ như Bộ luật Lao động, trong thời đại chúng ta chuyển rất nhanh sang thời đại tri thức, thời đại công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, tức là lực lượng tri thức sẽ là lực lượng quyết định sự phát triển. Cho nên chúng ta thấy rằng cách tiếp cận của luật để giải phóng lực lượng là hướng tới tương lai, đây là định hướng tư duy để tháo gỡ điểm nghẽn.
Nếu chúng ta chỉ tập trung vào cải tiến, chỉnh sửa, tức là tháo gỡ điểm nghẽn hiện tại thì chưa đủ và thậm chí sẽ vấp phải điểm nghẽn cực kỳ lớn tương lai khi tốc độ đua tranh đòi hỏi chúng ta không thể chần chừ. Nếu chúng ta không chuẩn bị năng lực, điều kiện thì sẽ mất cơ hội. Chi phí cơ hội sẽ rất lớn.
10:47 ngày 27/12/2024
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Tôi rất chia sẻ với PGS.TS. Trần Đình Thiên. Điều này cuối cùng gắn với hệ thống pháp luật rất nhiều, pháp luật là hệ điều hành, hành vi của bộ máy, hành vi của công chức, hành vi của các tổ chức đều bị pháp luật điều chỉnh. Pháp luật chất lượng thấp thì sẽ nghẽn thể chế, hệ điều hành lạc hậu sẽ không đáp ứng được nhu cầu. Mấy nguyên tắc đổi mới tư duy PGS.TS. Trần Đình Thiên đề ra tôi rất chia sẻ.
Thứ nhất, pháp luật phải dựa theo quy luật thị trường, đừng duy ý chí, đó là một tư duy rất quan trọng.
Thứ hai, pháp luật phải đề ra được cho tương lai, điều chỉnh trong hiện tại mà không chú ý đến tương lai thì sẽ bó chặt cơ hội của con em chúng ta trong thời gian tới. Đổi mới tư duy, tự do mới là giá trị tự thân, giá trị tuyệt đối. Điều chỉnh là một sự cần thiết, pháp luật là một sự cần thiết. Nếu không có tự do, không có cơ chế thị trường, không có đổi mới sáng tạo, không có đột phá gì được hết. Nhưng tự do vô cùng vô tận, tự do tuyệt đối sẽ đẻ ra vô chính phủ, đẻ ra bất ổn. Thành thử, nếu điều chỉnh thì điều chỉnh bảo đảm sự ổn định, bảo đảm trật tự, nhưng lạm dụng điều chỉnh, ban hành pháp luật thật nhiều thì trói chặt chân tay của toàn bộ thiết chế, của người dân lại, chi phí tuân thủ sẽ lớn khủng khiếp, sẽ dẫn đến việc làm ăn không dễ dàng nữa.
Tư duy đầu tiên tôi cho rằng phải có trong hoạt động lập pháp là phải cân đối giữa tự do và điều chỉnh. Phải xem thật sự cần luật thì lúc ấy mới ban hành luật, chứ không có chuyện coi ban hành thật nhiều luật là thành tích mà trói chặt các cơ hội, tiềm năng của đất nước này. Đấy là một tư duy mà tôi cho là bao trùm. Phải vận hành được các thể chế để có thể bảo đảm sự cân đối đó. Chính phủ trình thì Quốc hội thẩm định. Quốc hội thấy không phù hợp, Quốc hội không thông qua. Các thiết chế như vậy thì bảo đảm sự cân đối giữa tự do và điều chỉnh được.
Tư duy thứ hai rất gần với quan điểm của PGS.TS. Trần Đình Thiên, tức là chỉ can thiệp vào thị trường ở những nơi thị trường thất bại, còn muốn là chủ tất cả sẽ rất bất ổn, can thiệp vào quan hệ dân sự là không nên, quan hệ dân sự là quan hệ giữa người dân với nhau, luật dân sự quy định như vậy rồi thì để vận hành luật dân sự, không nên can thiệp, can thiệp vừa phải.
Thứ ba, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói rất rõ, phải từ bỏ tư duy không quản được thì cấm, bởi như vậy là bó hẹp không gian của người dân, doanh nghiệp. "Anh" không quản được thì vấn đề là của "anh", như bây giờ là phải tinh gọn, tinh giản. Thời đại này là thời đại số, dữ liệu quốc gia về dân cư Bộ Công an làm là một thành tựu lớn. Xác thực là chuyện trong nháy mắt, tại sao lại trùng trùng điệp điệp đến như vậy. Rõ ràng, "anh" có công cụ để giải quyết, không nên có tư duy không quản được thì cấm.
Thời đại thay đổi rất nhanh, bây giờ với trí tuệ nhân tạo, nếu không có quy chế Sandbox để thử nghiệm thì đất nước sẽ mất cơ hội rất lớn, đặc biệt trong những lĩnh vực đòi hỏi sáng tạo.
Xin được hỏi PGS.TS. Đào Duy Quát, hiện nay, Đảng ta xác định, đẩy mạnh phòng, chống lãng phí là một trọng tâm trong chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, được xếp ngang với phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Bước sang giai đoạn mới, kỷ nguyên mới, các yêu cầu, vấn đề đặt ra đối với công tác này là gì và sắp tới chúng ta cần phải định hướng lại hoạt động của mình, cả hệ thống như thế nào, thưa ông?
PGS.TS. Đào Duy Quát chia sẻ tại Tọa đàm - Ảnh: VGP/Kim Liên
PGS.TS. Đào Duy Quát: Vấn đề này Tổng Bí thư Tô Lâm đã có riêng một bài viết. Khi Đảng ta giành chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra hàng loạt thông điệp và phát động phong trào thi đua tiết kiệm, chống lãng phí, phát triển sản xuất trong sự nghiệp vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Đến thời kỳ đổi mới, Đảng ta, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng đã có hàng loạt nghị quyết, chỉ thị, quy định về vấn đề này. Đồng chí Tô Lâm trong bài viết của mình cũng đã nói thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong 40 năm qua đã góp phần rất lớn để chúng ta đạt được những thành tích vĩ đại cả về kinh tế, xã hội, cả về an ninh, quốc phòng, đối ngoại. Nhưng đồng chí cũng nhìn thẳng sự thật và nói một nhận định: nhưng hiện nay khi chúng ta, nhân dân ta chuẩn bị bước vào thời kỳ mới thì tình hình lãng phí rất phổ biến.
Tức là có mặt thứ hai rất phổ biến, có nơi, có chỗ rất nghiêm trọng và đồng chí cũng nói thẳng ra là hậu quả của không tiết kiệm và lãng phí này hơn cả tham nhũng. Hiện nay ai cũng biết, nhân dân thật sự bức xúc, không biết bao nhiêu dự án treo, không biết bao nhiêu công trình xây dựng như bệnh viện Bạch Mai 2, bệnh viện Việt Đức 2, rồi hàng loạt công trình công nghiệp xây xong bỏ đấy, hàng loạt công trình chung cư, nhà ở bỏ đấy. Như vậy là đánh mất một nguồn lực rất lớn, tài lực, vật lực rất lớn của đất nước. Thứ hai, đánh mất lớn hơn nữa chính là niềm tin và đặc biệt là mất nguồn lực con người.
Cho nên, bước vào thời kỳ mới này, để tăng tốc, bứt phá, để đạt được những mục tiêu rất quan trọng. Mục tiêu đến năm 2045 không phải chỉ là nước phát triển thu nhập cao. Đồng chí Tổng Bí thư đã viết là trở thành một nước XHCN phát triển, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, tức là lúc đấy chúng ta đã thực hiện được chặng cuối của thời kỳ quá độ lên CNXH chứ không phải chỉ là một nước phát triển thu nhập cao như tiêu chí của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), của Ngân hàng Thế giới (WB). Thế cho nên, sự nghiệp này chúng ta không chỉ phát triển kinh tế mà đặc biệt giải quyết các vấn đề xã hội, nhất là để mọi người đều ấm no, đều tự do, hạnh phúc.
Tôi có đọc bài nói chuyện của đồng chí Tô Lâm về giáo dục, phải tiến tới trong thời kỳ này, trong kỷ nguyên này không còn học phí nữa, trẻ em đến tuổi học phải có trường học, đã có học sinh thì phải có thầy. Nguồn lực Nhà nước ở đây là thế nào, yêu cầu một nguồn lực rất lớn cho phát triển kinh tế, cho khoa học công nghệ, cho đào tạo nguồn nhân lực, cho xây dựng các hệ thống hạ tầng. Vì vậy, đồng chí đã đặt ra cuộc vận động tiết kiệm, chống lãng phí như một cuộc cách mạng. Như Bác Hồ và đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói, lãng phí kẻ thù nội xâm, giặc nội xâm cực kỳ nguy hại, cho nên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải quán triệt sâu sắc vị trí, vai trò của tiết kiệm, chống lãng phí và phải có hành động quyết liệt từng người, từng cơ quan, từng đơn vị, từng cấp.
Đồng chí Tô Lâm hiểu sâu sắc vai trò, vị trí của văn hóa và bản thân đồng chí cũng là người rất mong muốn, có một khát vọng cho mọi người dân đều được hưởng thụ các giá trị văn hóa như âm nhạc, hội họa... Đồng chí nói có giải pháp về tư tưởng, giải pháp về thể chế, quy chế, quy chuẩn, nhưng đồng chí nhấn rất mạnh giải pháp văn hóa để khắc phục triệt để, để giá trị sống tiết kiệm, chống lãng phí thành giá trị văn hóa trong từng con người, nhất là trong cán bộ, đảng viên.
Đồng chí nói, một quốc gia, một dân tộc mà tiết kiệm, chống lãng phí là một quốc gia, một dân tộc văn minh. Cho nên cần phải suy nghĩ, tập trung cho chống lãng phí, để toàn dân, toàn hệ thống chính trị biết tiết kiệm, chống lãng phí. Khi có cả thể chế, chế độ, tiêu chuẩn, quy định, thì quan trọng là phải bồi dưỡng các giá trị văn hóa, sống tiết kiệm như là một tiêu chuẩn, biểu tượng văn hóa ở mỗi con người, mỗi cán bộ, đảng viên.
11:01 ngày 27/12/2024
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Xin cảm ơn PGS. Đào Duy Quát. Ông đã phân tích rất sâu. Đúng là chống lãng phí phải là một cuộc chiến quyết liệt không khác gì chống tham nhũng. Ông nêu cụ thể các giải pháp về thể chế, về kỷ luật, về răn đe… Coi trọng cả văn hóa và đạo đức là rất quan trọng. Bởi vì thực chất thất thoát do lãng phí lớn hơn tham nhũng rất nhiều. Ở Hà Nội bây giờ có khoảng 200 dự án treo, mỗi dự án như vậy cả mấy nghìn tỷ, lớn khủng khiếp. Nếu cả nước sẽ là bao nhiêu? Lãng phí tài nguyên tức là lãng phí phần của các thế hệ tương lai, của con cháu. Thứ ba nữa là có những thứ tham nhũng thu hồi được nhưng lãng phí thì không thể, là mất luôn. Lãng phí về cơ hội là mất luôn, lãng phí về thời gian là mất luôn. Vì thế, lãng phí gây mất mát lớn hơn rất nhiều.
Xin được hỏi GS.TS. Vũ Minh Khương, ông đánh giá như thế nào về chủ trương sắp xếp bộ máy hiện nay với quyết tâm chính trị rất lớn đang được Đảng và Nhà nước quyết liệt chỉ đạo triển khai thực hiện theo tinh thần "tinh gọn, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả". Ông và các đồng nghiệp, cộng sự của mình có nhận định, kỳ vọng như thế nào về việc thực hiện chủ trương này và ông có các tham vấn, khuyến nghị gì?
GS.TS. Vũ Minh Khương cho rằng, bên cạnh 3 trụ cột thể chế, hạ tầng và nguồn nhân lực, Việt Nam cần thực hiện hai đột phá nữa - tầm nhìn về tương lai và hội nhập thế giới - để cất cánh
GS.TS. Vũ Minh Khương: Tôi chỉ bổ sung một số vấn đề có tính nguyên lý từ người quan sát ở bên ngoài. Thứ nhất, để xây dựng một bộ máy công quyền, hiệu năng, hiệu quả thì nên chú ý ba trụ cột. Một là năng lực, hai là động lực, ba là tổng lực. Nếu để một người thiết kế chiến lược thì người ta nhấn mạnh yếu tố tổng lực trước. Tổng lực nghĩa là một cộng một bằng 11, lớn hơn rất nhiều. Nếu chỉ xoay quanh năng lực hay động lực rất quan trọng nhưng mà có yếu tố chồng chéo nhau thì gay. Ngay tổng lực ở đây cũng có mấy điểm: Nó tạo ra sức mạnh cộng hưởng rất lớn và cũng là sức mạnh nội sinh, càng đánh càng mạnh, càng lan, càng hăng hái thì mới tốt. Chứ nếu chỉ có một vài người năng lực hay có một số động lực trả lương cao, trải thảm đỏ nhưng không có tổng lực là chết. Cho nên trong thiết kế bộ máy tinh gọn, phải rất chú ý yếu tố tổng lực.
Khi thảo luận với đồng nghiệp bên này, tôi nói về ba đột phá của Việt Nam. Ta nói về thể chế, hạ tầng và nguồn nhân lực, nhưng những người có trách nhiệm nói với chúng tôi rằng chúng ta thiếu hai cái. Nếu hai cái này đột phá nữa thì Việt Nam mới cất cánh được, còn nếu không chỉ ba trụ cột kia thì chưa đủ. Đột phá thứ nhất là thay vì đổi mới tư duy, ta phải có tầm nhìn về tương lai 2045 Việt Nam như thế nào, bộ máy hình hài ra sao, hệ thống luật pháp, bộ máy công quyền ra sao? Chúng ta cần một cuộc cải biến vĩ đại từ 2025 đến 2045 để tiến đến đích đó. Nếu không thì giống như thay vì là chúng ta khẩn trương xây dựng hệ thống tàu điện ngầm, ta thấy tắc đường lại chỉ làm cầu vượt, biện pháp tháo gỡ ấy mà. Tháo gỡ ở Việt Nam quá nhiều. Tháo gỡ nhưng sao vẫn cứ rối rắm như thế? Do mình thôi. Còn nếu đã định hình tương lai cuộc đời thì rất đơn giản. Tại sao bên này chả phải họp hành gì cả? Đơn giản là hầu hết thời gian dành cho mình, để mình tu dưỡng, vươn lên thì mới có năng lực. Chứ còn người giỏi nhất về Việt Nam đi họp suốt thì cũng chả giỏi được. Ta cần chú ý cái đó. Cho nên phải có tầm nhìn về tương lai, phải hoạch định rất rõ năm 2045 như thế nào và cái gì ta làm được trước, cái gì ta tiến hành sau; để đến năm 2045, thế hệ tương lai nhìn lại, họ thấy tự hào, biết ơn và cảm phục chúng ta đã làm được điều phi thường. Đấy là đột phá đầu tiên, là tầm nhìn về tương lai.
Đột phá thứ hai là hội nhập thế giới. Chúng ta hiện giờ hội nhập rất tốt nhưng vẫn chỉ xoay quanh ngoại giao cây tre, rồi thu hút đầu tư và xuất nhập khẩu. Nhưng chúng ta chưa nghĩ đến học hỏi những kinh nghiệm hay nhất của thế giới. Hệ thống luật pháp của Hàn Quốc thế nào, của Singapore thế nào, của Trung Quốc ra sao, Nhật Bản thế nào… đặt lên bàn cho chúng tôi. Anh ra luật mới về đấu thầu, về đất đai, về đầu tư công có hay hơn không? Nếu kém hơn hẳn thì thôi, đừng thông qua làm gì cho mất thời gian. Đã làm gì là phải để lại cho con cháu chúng ta thấy tự hào. Hội nhập thế giới thậm chí còn là tuyển chọn những người giỏi, người xuất sắc của nước ngoài, cấy vào những bộ phận rất cụ thể để tăng sự cộng hưởng toàn cầu của chúng ta. Chúng ta sẽ có những chuyên gia xuất sắc về AI, về bóng đá, về tất cả các thứ mà dân tộc này có thể tự hào được vì nó cộng hưởng sức mạnh lên. Nhiều khi thiếu một vài tố chất nhất định sẽ không lên được. Nếu hai yếu tố này có đột phá thì Việt Nam thần kỳ hơn hẳn. Lúc đấy Việt Nam không chỉ là xã hội chủ nghĩa giàu mạnh đâu mà còn là tấm gương cho thế giới, các nước sẽ phải nối tiếp nhau đến Việt Nam học hỏi. Đấy là phát triển nội sinh, càng làm càng mạnh. Chứ ta cứ theo tư duy vay viện trợ là không hay đâu. Đất nước mình 329.000 km vuông, dân trăm triệu mà cứ ngửa tay đi xin khiến người ta không thể ngờ được tại sao. Trong hội nhập quốc tế bây giờ phải là một dân tộc trỗi dậy, thực sự xứng đáng là sự tự hào của thế giới. Đấy là những cái thế hệ tương lai sẽ nhìn lại, sẽ có cảm khái rất lớn. Sức mạnh tổng lực nằm ở đây. Điểm đầu tiên tôi muốn nhấn mạnh là yếu tố tổng lực.
Yếu tố thứ hai trong xây dựng bộ máy công quyền thì rất chú ý các nguyên lý. Nguyên lý đầu tiên là minh bạch và đơn giản. Tôi rất thích ví dụ của TS. Nguyễn Sĩ Dũng nếu là cái gì cũng bắt người ta chứng nhận. Tôi đã biết cái cảnh xin chứng minh nhận. Sinh viên xin học bổng phải chứng nhận nghèo. Tức là không có tư duy quản trị mà cứ quản lý chặt. Cho nên cần đơn giản và minh bạch, minh bạch rồi thì có người thân người quen cũng không dám đưa vào. Nên chú ý học quốc tế. Ví dụ như giấy phép lái xe chẳng hạn. Động lực làm lại giấy phép lái xe là để thu thêm kinh phí với thể hiện quyền lực thì không cần. Cứ cho luôn đến 65 tuổi, chỉ sau 65 tuổi mới phải khám sức khỏe. Nhưng ai vi phạm thì phải học lại đầy đủ. Tức là chính sách của họ chỉ giám sát những người có vi phạm. Còn những người tốt, mọi việc đơn giản lắm. Cho nên mọi người ý thức tốt hơn rất nhiều.
Bên cạnh những thông điệp lớn, có những việc nhỏ để lấy lòng dân ngay. Nhiều khi mình dựa vào luật pháp quá nhiều lại không bằng những nguyên lý căn bản. Một giải pháp tốt thỏa mãn ba nguyên lý căn bản: Thứ nhất là có lợi cho dân không? Thứ hai, có lợi cho nước không? Và thứ ba, có tăng lòng dân, được lòng tin của người dân và hệ thống chính trị không? Nếu có ba điểm này thì sẽ giải quyết nhanh. Nguyên lý như thế. Thực tế rất phong phú, nó là chân lý, mình phải dựa vào chân lý. Còn mình dựa vào chỉ thị này, chỉ thị khác, tức là tư duy quản lý chứ không phải quản trị. Quản trị nghĩa là đến năm 2045, chúng ta trở thành một cường quốc, trở thành một đất nước đáng tự hào, là dân tộc Việt Nam ngẩng đầu sánh vai với các cường quốc.
Tôi thấy cái ý rất hay của Tổng Bí thư Tô Lâm là mình phải có đóng góp xứng đáng với cộng đồng thế giới chứ không phải chỉ là dân giàu, nước mạnh. Thực sự là, những đóng góp xứng đáng với thế giới chính là ta trả ơn thế giới giúp đỡ chúng ta suốt những cuộc chiến tranh cách mạng cũng như trong phát triển kinh tế. Đây là cái giá trị rất lớn. Tôi rất thích cái định nghĩa của Singapore là: Giá trị của chúng ta là dựa vào thế giới, coi giá trị làm cho thế giới tốt đẹp lên. Chúng ta phải làm sao nuôi dưỡng ý thức này của người dân. Một người yêu nước là người làm cho Việt Nam có giá trị hơn với thế giới, được thế giới quý trọng. Cần có những định đề giá trị thật rõ trong tương lai.
Điều thứ ba là những giải pháp tương đối cụ thể. Theo tôi, nên chú trọng những yếu tố cộng hưởng. Chọn người thì cần chú ý người đó phải có nhận thức đâu là những thách thức lớn nhất trong công việc, nếu không biết thách thức là gì thì hỏng. Bởi vì anh không biết thách thức cốt tử thì anh chỉ nắm cơ hội thôi, rất là ngắn hạn. Nhưng phải biết thách thức, bởi vì khi người ta biết thách thức, người ta mới đi được xa. Thứ hai là phải đưa ra những giải pháp chiến lược, đâu là cách để vượt qua. Và thứ ba là phải có những ưu tiên quyết sách. Tôi đề nghị các địa phương, bộ ngành đều phải cho người đứng đầu chọn nhân sự. Ứng viên phải thể hiện rõ tôi biết thách thức của tôi nếu là giám đốc sở này hay là chủ tịch huyện kia. Đây là 3 thách thức lớn, đây là 7 giải pháp tôi có và nếu tôi được thực hành, đây là những cái tôi làm. Từ đó mà xem được ủng hộ như thế nào. Cái hay của Singapore là không lấy người dưới bầu mà người trên chọn. Ở Singapore, họ bầu ngược, tức là cứ cấp trên chọn cấp dưới dựa trên những tiêu chí nêu hồ sơ rõ ràng.
Trong công tác cán bộ, có một vấn đề tôi thấy là ta có nhiều hệ thống thanh tra, kiểm tra, nhưng chức năng của chúng ta là xử lý, kỷ luật. Nhưng thực sự chức năng của thanh tra, kiểm tra quý thế này: Tạo ra ba tuyến phòng vệ. Tuyến thứ nhất là rào dậu thật kỹ; tuyến hai là cảnh báo; thứ ba là rà soát thường xuyên. Thanh tra, kiểm tra của mình tốt nhưng nên có chức năng cảnh báo nhiều để trước khi người ta phạm tội, trước khi người ta "vượt rào" thì đã được cảnh báo. Như vậy, tự nhiên người ta quý thanh tra, kiểm tra. Như thế đỡ phải để nhiều người phạm tội. Đó là vài ý kiến của tôi. Xin cảm ơn!
11:17 ngày 27/12/2024
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Đây là quá trình sắp xếp lại lực lượng lao động, xét về hiệu quả chung cho xã hội sẽ lớn hơn. Chúng ta nên quan niệm theo hướng đó sẽ đúng đắn và nhân bản hơn, để chúng ta có phương cách đối xử với những người sắp tinh giản. Cần phải có chế độ, chính sách rõ ràng, tạo cơ hội cho họ tham gia vào những lĩnh vực tư khác... như vậy sẽ tốt đẹp hơn.
Bước vào kỷ nguyên vươn mình, đất nước ta, dân tộc ta sẽ có các cơ hội mới, vận hội mới, thời cơ mới. Vậy, các cấp, các ngành, người dân, doanh nghiệp cần phải có sự chuẩn bị như thế nào và cần phải làm gì để đón nhận, tận dụng tối đa được các cơ hội, lợi thế trong kỷ nguyên mới để bứt phá, tăng tốc, phát triển, và cũng nhận diện được những khó khăn, thách thức để tìm ra được những giải pháp ứng phó, đối mặt và vượt qua?
Các vị khách mời trao đổi về những gì cần làm để đón nhận, tận dụng tối đa các cơ hội, lợi thế trong kỷ nguyên mới để bứt phá, tăng tốc, phát triển - Ảnh: VGP/Kim Liên
PGS.TS. Trần Đình Thiên: Cơ hội và thách thức rất lớn tuy nhiên năng lực có thể chưa đáp ứng được. Chúng ta đang có khí thế, có đà để đi lên nhưng vẫn còn nhiều điểm nghẽn và thắt nút. Do đó, cách đặt vấn đề trong thời gian tới không chỉ căn cứ vào tinh thần hào hứng vì khó khăn còn chưa bắt đầu. Để giải quyết vấn đề này phải bắt đầu đúng theo tinh thần từ trên xuống, phải định hình mỗi cơ quan, mỗi cá nhân có chức năng, nhiệm vụ rõ ràng. Có chức năng, nhiệm vụ mới chuẩn bị tốt năng lực, điều kiện. Tôi cho rằng tính chuyên nghiệp của công việc còn chưa cao nên cần định vị lại. Để thực hiện được việc này, nguyên tắc chung là Nhà nước phải tạo ra các điều kiện để làm sao những nhiệm vụ đặt ra cho các cơ quan, các cá nhân trở thành cơ hội. Nhà nước cần biến những nhiệm vụ quốc gia, thách thức quốc gia để có cơ chế, có điều kiện thực thi từ đó biến thành cơ hội cho cá nhân, doanh nghiệp. Đó là việc rất quan trọng. Vì vậy, cách tiếp cận mở, cách tiếp cận trao quyền, tự quyết, tự làm, tự chịu trách nhiệm cần phải được triển khai và thực thi. Tôi nghĩ không dễ dàng vì trao quyền đến bao nhiêu, thực hiện trên cơ sở nào, nguồn lực nào, rủi ro ra sao... Hiện nay cơ chế cũng chưa rõ ràng.
Do đó, một trong những điểm then chốt trong tổ chức bộ máy sắp tới chính là cách tiếp cận thực sự rõ ràng, biến thành cơ chế, thành nguyên tắc vận hành là trao quyền tự quyết, tự làm, tự chịu trách nhiệm cho các chủ thể. Nếu làm được theo tinh thần như vậy sẽ mở ra không gian sáng tạo, không gian cho các cơ hội từ đó tiếp tục phát huy khí thế hiện nay đang có và tận dụng cơ hội nghìn năm có một này
TS. Nguyễn Văn Đáng: Nói về thời cơ và cơ hội cũng như sự sẵn sàng trong các lực lượng, chúng ta cần đề cập đến ở đây là chủ thể của hệ thống chính trị, chủ thể của thị trường, của doanh nghiệp và các chủ thể của xã hội, từng cá nhân công dân cần phải làm gì. Tôi cho rằng từng cá nhân hay tổ chức doanh nghiệp đều có nhu cầu có sẵn, ai cũng muốn có công ăn việc làm để cải thiện thu nhập, mức sống; doanh nghiệp có nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh. Nhưng tôi đặt vào nhiều hơn là vai trò của hệ thống chính trị và các cơ quan công quyền trong việc phát hiện ra các cơ hội và kiến tạo giúp người dân, doanh nghiệp tiếp cận được với cơ hội để hiện thực hóa khát vọng của họ.
Liên quan đến cơ hội, có nhiều ý kiến cho rằng cơ hội nào để cho đất nước có thể "vươn mình" được, tôi cho rằng cơ hội không nghiễm nhiên có sẵn, cơ hội là chúng ta phải định hình, phân tích, xác định đâu là cơ hội gắn với từng ngành, từng lĩnh vực, đâu là cơ hội trong ngắn hạn hay dài hạn. Do đó, năng lực của Đảng, của hệ thống cơ quan Nhà nước trong việc xác định các cơ hội từ đó thúc đẩy cơ hội đến nhiều hơn để người dân, doanh nghiệp có thể tận dụng được. Đó là thách thức rất lớn. Tuy nhiên, tôi cho rằng, thời cơ về phía chủ quan là tâm thế xã hội Việt Nam hiện nay rất sẵn sàng, khát vọng để vươn lên, đã khá lâu chúng ta mới thấy được niềm hân hoan, hứng khởi, truyền cảm hứng, sự tự tin tiến vào tương lai của cả hệ thống chính trị và xã hội.
Tôi muốn đề cập đến thách thức ở tương lai, đặc biệt đưa đất nước "vươn mình" bằng việc cụ thể hóa ở tầm nhìn lãnh đạo đến năm 2045, trước hết là duy trì được vai trò sự lãnh đạo của Đảng, hiện nay Đảng đã khơi dậy được khát vọng phát triển của cả dân tộc vì vậy làm sao Đảng tiếp tục duy trì sự lãnh đạo dân tộc trong công cuộc này để quy tụ và duy trì sự ủng hộ của các lực lượng xã hội lâu dài, tránh sự hứng khởi được một thời điểm sau đó đi xuống sẽ không tốt cho việc hiện thực hóa giấc mơ quốc gia phát triển.
Thứ hai là việc các cơ quan công quyền thông qua hệ thống chính sách làm thế nào để tạo nhiều hơn nữa cơ hội cho các cá nhân, tổ chức để họ phát huy tối đa tiềm năng đóng góp cho sự phát triển của đất nước.
Thứ ba là trong tiến trình đưa đất nước phát triển chúng ta đang chứng kiến sự quyết liệt, quyết tâm, nhấn quán giữa phát ngôn và hành động của cấp lãnh đạo vì vậy làm thế nào để tiếp tục duy trì tinh thần này, đặc biệt sự quyết liệt trong hành động để tạo nên sự thay đổi rõ rệt trong thực tế, tránh chuyện thiếu nhất quán trong phát ngôn, trong chủ trương chính sách và hành động hay hành động nửa vời thì rất khó thực hiện được các mục tiêu đã đặt ra từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII. Điều này đã được chứng minh trong thực tế ở các quốc gia phát triển như Hàn Quốc, Singapore kỷ luật và quyết liệt trong hành động trong một thời gian dài thì họ mới hiện thực hóa được những mục tiêu đề ra.
PGS.TS Đào Duy Quát: Từ đồng chí Nguyễn Phú Trọng đến Tổng Bí thư Tô Lâm hiện nay đều nói giải pháp đầu tiên, tức là toàn bộ các hoạt động từ Trung ương đến cơ sở của mọi cán bộ đảng viên, thì phải lấy dân làm trung tâm, làm chủ thể và thước đo là dân có hài lòng không.
Đặc biệt, trước đây đã có Chỉ thị của Ban Bí thư về "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", thì bây giờ lại bổ sung "dân thụ hưởng", nhưng phải cụ thể, dân biết là cái gì phải cho dân biết; dân được bàn thì bàn cụ thể cái gì; dân được kiểm tra thì kiểm tra như thế nào, dân được thụ hưởng thì phải tính…
Và cái điều thứ hai là phân cấp phân quyền rõ đi, tức là các tỉnh, các cơ quan được quyết cái gì, được được làm cái gì chứ không thể cứ xin ý kiến. Phân cấp, phân quyền nhưng ngay tại Chính phủ, tại Trung ương cũng phải rất rành mạch thế thì chắc chắn mới khơi dậy được sức mạnh chủ động, sáng tạo của tất cả các cấp, của mọi người.
11:30 ngày 27/12/2024
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Lịch sử Cách mạng Việt Nam cho thấy, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, bằng sự khơi dậy ý chí tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, bằng việc huy động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa dân tộc ta giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, tạo nên những kỳ tích.
Những thành tựu vĩ đại của đất nước đạt được sau 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng giúp chúng ta tích lũy đủ thế và lực cho sự phát triển bứt phá, tăng tốc, cất cánh, vươn lên trong giai đoạn cách mạng tiếp theo.
Từ sự phân tích của các vị khách mời tại Tọa đàm, chúng ta hiểu rõ hơn, có cái nhìn tổng quát và sinh động hơn về nhận thức, nội hàm, cơ sở lý luận và thực tiễn khoa học để đất nước ta vững bước tiến vào kỷ nguyên mới; các yêu cầu đặt ra trong triển khai toàn diện, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp để tạo sự phát triển đột phá trên các lĩnh vực; cơ hội, vận hội của đất nước trong kỷ nguyên mới cũng như những khó khăn, thách thức cần được nhận diện để ứng phó và vượt qua.
Với thế và lực của đất nước như ngày nay, đây chính là thời điểm chín muồi để chúng ta vững tâm, vững bước và vững tin tiến vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, vì một Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phát triển toàn diện, hội nhập thành công, tiến cùng thời đại./.