PGS. TS Nguyễn Quang Hưng là một trong số các nhà khoa học được đề cử giải chính Giải thưởng Tạ Quang Bửu 2020.
Thưa PGS. TS Nguyễn Quang Hưng, ông có thể cho độc giả biết một số nét mới của công trình nghiên cứu, thưa ông?
PGS. TS Nguyễn Quang Hưng: Khái niệm mật độ mức được đưa ra bởi Hans Bethe (giải Nobel Vật lý năm 1967) từ năm 1936 để xác định số trạng thái kích thích của hạt nhân nguyên tử trên một đơn vị năng lượng kích thích. Trong khi đó, khái niệm về hàm lực bức xạ được John Blatt và Victor Weisskopf đưa ra từ năm 1952 để chỉ xác suất phát bức xạ gamma điện từ trung bình trên một đơn vị năng lượng của tia gamma khi hạt nhân bị kích thích. Đây là hai trong số những đại lượng quan trọng đối với các nghiên cứu về cấu trúc hạt nhân và phản ứng hạt nhân tại vùng năng lượng thấp. Hai đại lượng này cũng hay được sử dụng trong các tính toán về vật lý hạt nhân thiên văn như tốc độ của các phản ứng xảy ra trong sao hay các quá trình tổng hợp nguyên tố trong vũ trụ. Nghiên cứu về mật độ mức và hàm lực bức xạ do vậy đã trở thành một trong những chủ đề nghiên cứu sôi động trong cộng đồng các nhà vật lý hạt nhân trên thế giới, cả về lý thuyết lẫn thực nghiệm. Về mặt thực nghiệm, một số trung tâm nghiên cứu lớn trên thế giới đã và đang tập trung nghiên cứu theo hướng này như Trung tâm máy gia tốc vòng (Cyclotron Center) thuộc ĐH Oslo (Na Uy), Phòng thí nghiệm máy gia tốc Edwards (Edwards Accelerator Laboratory) thuộc ĐH Ohio (Hoa Kỳ), Phòng thí nghiệm quốc gia Los Alamos (Hoa Kỳ) với hệ phổ kế DANCE (Detector for Advanced Neutron Capture Experiments), Trung tâm nghiên cứu hạt nhân RCNP (Research Center for Nuclear Physics) thuộc ĐH Osaka (Nhật Bản), Viện nghiên cứu hạt nhân liên hợp Dubna (Nga),... Đặc biệt, từ năm 2000, Trung tâm máy gia tốc vòng của ĐH Oslo đã phát triển một phương pháp (gọi là phương pháp Oslo) cho phép trích xuất đồng thời mật độ mức và hàm lực bức xạ từ phổ phân rã tia gamma của các hạt nhân hợp phần tạo ra từ thí nghiệm. Cho tới nay, phương pháp Oslo vẫn là phương pháp ưu việt nhất trong việc trích xuất thông tin thực nghiệm về mật độ mức và hàm lực bức xạ của hạt nhân nguyên tử. Về mặt lý thuyết, mặc dù có nhiều mô hình lý thuyết đã được phát triển, tuy nhiên cho tới nay chưa có một mô hình lý thuyết vi mô nào có thể mô tả được đồng thời cả mật độ mức và hàm lực bức xạ. Trong công trình này chúng tôi đã lần đầu tiên đề xuất một mô hình lý thuyết như vậy, tức là cho phép mô tả vi mô và đồng thời mật độ mức và hàm lực bức xạ với độ chính xác cao, thể hiện qua số liệu tính toán từ mô hình của chúng tôi hoàn toàn phù hợp với số liệu thực nghiệm của nhóm Oslo. Ngoài ra, một ưu điểm nổi bật của mô hình mà chúng tôi đề xuất là thời gian tính toán rất nhanh, chỉ mất khoảng 5 phút để tính được mật độ mức và hàm lực bức xạ của một hạt nhân với máy tính cá nhân bình thường. Trong khi đó một số tính toán lý thuyết vi mô khác như tính toán Monte-Carlo theo mẫu lớp của nhóm lý thuyết hạt nhân tại ĐH Yale (Hoa Kỳ) phải mất vài ngày trên hệ thống siêu máy tính.
PGS. TS Nguyễn Quang Hưng là một trong số các nhà khoa học được đề cử giải chính Giải thưởng Tạ Quang Bửu 2020
Ở những thời kỳ làm khoa học đầu tiên, viết những bài báo quốc tế đầu tiên, chắc ông phải đối diện với nhiều khó khăn?
PGS. TS Nguyễn Quang Hưng: Tôi đã rất may mắn khi được Viện Nghiên cứu Vật lý và Hoá học (RIKEN), Nhật Bản cấp học bổng toàn phần 3 năm (7/2006 – 7/2009) theo học chương trình hợp tác vùng Châu Á (Asian Program Associate) dành cho các Nghiên cứu sinh Tiến sĩ. Điều đặc biệt may mắn nhất đối với tôi là được học tập và làm nghiên cứu dưới sự hướng dẫn trực tiếp của TSKH Nguyễn Đình Đăng tại RIKEN, một nhà khoa học tài hoa (xuất sắc trong cả Vật lý, lẫn Hội hoạ, nghệ thuật). Lúc mới sang RIKEN, tôi thực sự rất lo lắng và cũng gặp rất nhiều khó khăn vì sự thiếu hụt gần như toàn bộ nền tảng kiến thức về lý thuyết cấu trúc hạt nhân cũng như cơ học lượng tử (công cụ nền tảng cho lý thuyết hạt nhân). Thầy Đăng đưa cho tôi một số bài báo để đọc mà tôi hoàn toàn không hiểu gì. Tôi tự đặt áp lực cho mình là phải làm thật tốt nếu không có khả năng sẽ bị cắt học bổng và cho về nước. Tôi dành thời gian suốt 2 tháng đầu tiên tại Nhật Bản tự học lại hết các kiến thức căn bản. Sau 2 tháng tôi bắt đầu hiểu được vấn đề mà thầy hướng dẫn đưa ra và bắt đầu vào công việc nghiên cứu. Sau 6 tháng tôi đã có những kết quả đầu tiên và bắt đầu tập viết bản thảo bài báo. Tôi còn nhớ rất rõ bản thảo bài báo đầu tiên tôi viết trong thời gian 3-4 tháng với đầy những lỗi về cấu trúc câu cũng như ngữ pháp. Thầy Đăng đã giúp tôi sửa lại toàn bộ bài báo và chỉ cho tôi những lỗi và cách sửa lỗi như thế nào. Mỗi lần như vậy tôi cố gắng ghi nhớ lại thật kỹ và tới những bài báo tiếp theo, kỹ năng nghiên cứu cũng như viết bài của tôi được cải thiện dần. Cũng sau 6 tháng đầu tiên, số cân nặng của tôi tỷ lệ nghịch với lượng kiến thức tôi học được (giảm từ 75 kg xuống còn gần 65 kg). Sau 2 năm tôi đã công bố được 3 bài báo trên tạp chí Physical Review C và viết xong bản thảo luận án Tiến sĩ để gửi về Viện Vật lý, Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam làm thủ tục bảo vệ (Viện RIKEN là viện nghiên cứu quốc gia của Nhật Bản, không phải trường Đại học nên họ không cấp bằng Tiến sĩ mà chỉ hỗ trợ cho tôi được làm luận án Tiến sĩ tại RIKEN).
Xin ông cho biết những đóng góp của công trình tham gia xét tặng giải thưởng?
PGS. TS Nguyễn Quang Hưng: Công trình của chúng tôi có ý nghĩa quan trọng bởi đây mới chỉ là công trình nghiên cứu thứ 2 của một nhóm tác giả hoàn toàn người Việt Nam (2/3 số tác giả đang làm nghiên cứu trong nước) được công bố trên tạp chí hạng nhất (Physical Review Letters) về Vật lý (công trình đầu tiên của nhóm tác giả tại Viện Vật lý công bố năm 2002). Công trình này cũng là minh chứng rằng, mặc dù điều kiện làm nghiên cứu trong nước còn nhiều hạn chế nhưng các nhà khoa học Việt Nam vẫn hoàn toàn có đủ trình độ để công bố được kết quả nghiên cứu trên các tạp chí danh tiếng, không thua kém các nhà khoa học tại các nước phát triển. Cũng chính vì ý nghĩa quan trọng đó, ngay sau khi bài báo được công bố, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Chu Ngọc Anh đã gửi thư chúc mừng 3 tác giả của bài báo. Trong thư chúc mừng, Bộ trưởng có chia sẻ “Vật lý hạt nhân luôn là một trong những hướng nghiên cứu ưu tiên của Nhà nước. Tuy nhiên, nghiên cứu vật lý hạt nhân ở Việt Nam gặp khó khăn hơn so với các lĩnh vực khác. Do đó các nhà khoa học Việt Nam vẫn phải thường xuyên hợp tác với đối tác nước ngoài như Pháp, Nhật Bản, Nga, Hàn Quốc và ra nước ngoài làm việc trên những máy gia tốc mà Việt Nam chưa có”. Bộ trưởng cũng gửi lời “cảm ơn nhóm tác giả đã kiên trì theo đuổi nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực khó như vật lý hạt nhân khi điều kiện khoa học nước nhà còn khó khăn” và khẳng định “Thành công của các bạn đã đóng góp chung cho thành công của lĩnh vực vật lý Việt Nam và của nền khoa học Việt Nam”. Bức thư của Bộ trưởng là nguồn động viên tinh thần rất lớn cho chúng tôi tiếp tục theo đuổi những hướng nghiên cứu lớn hơn.
Ông có thể chia sẻ quan điểm về những khó khăn trong việc thúc đẩy phát triển các công trình, đề tài nghiên cứu khoa học hiện nay không?
PGS. TS Nguyễn Quang Hưng: Nói về khó khăn trong nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu cơ bản thì nhiều lắm, tôi cũng không biết bắt đầu từ đâu. Theo quan điểm của tôi, khó khăn lớn nhất là nhận thức của bản thân các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý về nghiên cứu cơ bản, về việc công bố các công trình nghiên cứu trên các tạp chí quốc tế uy tín. Trước kia việc công bố bài báo khoa học trên các tạp chí quốc tế chưa được coi trọng bởi một số quan điểm cho rằng nghiên cứu cơ bản hay các bài báo quốc tế không giúp ích gì cho sự phát triển khoa học công nghệ và kinh tế của xã hội. Tuy nhiên, từ năm 2010 trở lại đây, với sự ra đời của Quỹ NAFOSTED cùng với sự hội nhập toàn diện của khoa học và giáo dục Việt Nam với thế giới, nghiên cứu cơ bản được quan tâm nhiều hơn như là thước đo đánh giá tiềm năng tri thức của đất nước. Tôi thực sự may mắn khi trở về nước làm việc vào đúng thời điểm này (cuối năm 2010). Nhờ sự hỗ trợ của Quỹ NAFOSTED cũng như sự coi trọng và ghi nhận của xã hội đối với nghiên cứu cơ bản tôi đã được hoàn toàn tập trung vào công việc nghiên cứu, sống được bằng nghề, nuôi được vợ con mà không phải bận tâm vào việc kiếm tiền từ các công việc khác. Tuy nhiên hiện nay vẫn còn một số hạn chế nhất định trong việc thúc đẩy mạnh mẽ các công trình, dự án nghiên cứu chất lượng cao. Cụ thể là việc hỗ trợ và tạo điều kiện cho các nhà khoa học trong nước thường xuyên được tham gia các hội nghị, hội thảo quốc tế, được giao lưu với các nhà khoa học nước ngoài. Các đề tài NAFOSTED chỉ hỗ trợ cho việc tham gia các hội nghị quốc gia hoặc hội nghị quốc tế được tổ chức tại Việt Nam. Việc tham gia hội nghị tại nước ngoài phải xin riêng và cũng hạn chế 1-2 năm mới được đi 1 lần.
Để có thể theo đuổi và gắn bó với con đường nghiên cứu khoa học, theo ông điều gì là quan trọng nhất?
PGS. TS Nguyễn Quang Hưng: Đối với tôi, điều quan trọng nhất vẫn là đam mê. Nghiên cứu khoa học, đặc biệt khoa học cơ bản là một hành trình khám phá suốt đời để tìm ra những kiến thức mới cho nhân loại. Kiến thức đó có thể chưa mang lại những ứng dụng nhất thời hoặc cũng có thể không bao giờ được đem ra ứng dụng thực tế. Tuy nhiên nó sẽ góp phần tạo cơ sở tiền đề cho những nghiên cứu phát triển tiếp theo. Do vậy, công việc của các nhà nghiên cứu nói chung đòi hỏi phải thường xuyên tìm tòi và sáng tạo ra cái mới. Để làm được việc đó thì chỉ có thực sự đam mê thì mới làm được. Tất nhiên những điều kiện khác như lương bổng, cơ sở vật chất, chính sách,… cũng quan trọng để hỗ trợ nhà khoa học yên tâm theo đuổi đam mê của mình.
Xin cảm ơn ông vê cuộc trò chuyện này.