Đoàn giám sát gồm các thành viên là đại diện Ban Chỉ đạo Chương trình phối hợp giám sát, Tổ giúp việc Ban Chỉ đạo; đại diện Vụ Pháp chế, Vụ Phát triển KH&CN địa phương thuộc Bộ KH&CN.
Chiều ngày 11/10/2016, Đoàn giám sát đã đến khảo sát tại Viện Nghiên cứu Hải sản (thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) và Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN (thuộc Sở KH&CN TP. Hải Phòng). Tại đây, Đoàn đã nghe báo cáo về các chính sách KH&CN đang triển khai thực hiện, về thuận lợi và những vướng mắc đặt ra từ thực tiễn hoạt động KH&CN tại địa phương và cơ sở.
Sáng ngày 12/10/2016, Đoàn làm việc với Thường trực Thành ủy, Ủy ban nhân dân và các sở, ngành của Thành phố Hải Phòng. Tiếp và làm việc với Đoàn có các đồng chí: Lê Khắc Nam, Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hải Phòng; Phạm Văn Mợi, Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận tổ quốc Thành phố và Lãnh đạo các sở, ngành có liên quan.
Tại buổi làm việc, ông Nguyễn Văn An - Giám đốc Sở KH&CN TP. Hải Phòng báo cáo về kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (Khóa XI) và Luật KH&CN:
Về công tác tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (khoá XI) về phát triển KH&CN: - Thành ủy Thành phố Hải Phòng ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TU ngày 16/5/2013 về phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế thành phố Hải Phòng đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
- Hội đồng nhân dân thành phố Hải Phòng (khóa XIV) đã thông qua Nghị quyết số 08/2013/NQ-HĐND ngày 25/7/2013, tại kỳ họp thứ 6 về nhiệm vụ, giải pháp phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế thành phố Hải Phòng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
- Ban Tuyên giáo Thành ủy phối hợp với Sở KH&CN tổ chức 05 hội nghị quán triệt các Nghị quyết, bàn kế hoạch triển khai Nghị quyết cho các đối tượng là cán bộ, đảng viên làm công tác quản lý KH&CN; cán bộ các Sở, ngành, quận, huyện; trường đại học, cao đẳng, tổ chức KH&CN; các tổ chức chính trị xã hội, hội nghề nghiệp; các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố.
- Các Sở, ngành, quận huyện trên địa bàn đã tổ chức các hội nghị quán triệt các Nghị quyết của trung ương, thành phố về KH&CN và xây dựng các kế hoạch, chương trình, đề án, giải pháp cụ thể, phù hợp để triển khai thực hiện.
- Ủy ban nhân dân thành phố phê duyệt “Chiến lược phát triển KH&CN thành phố đến năm 2020, định hướng 2030”, theo đó phê duyệt và thực hiện 06 chương trình nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ và 05 chương trình KH&CN trọng điểm đến năm 2020 để triển khai thực hiện. Ủy ban nhân dân Thành phố còn phê duyệt, triển khai nhiều kế hoạch có liên quan như:
+ Kế hoạch số 2144/KH-UBND ngày 03/4/2014 thực hiện Kết luận số 07-KL/TU ngày 05/12/2013 của Ban Thường vụ Thành ủy về sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TU về một số chủ trương, giải pháp chủ yếu phát triển nhân lực chất lượng cao;
+ Kế hoạch số 4682/KH-UBND ngày 30/6/2014 thực hiện Kết luận số 11-KL/TU ngày 23/12/2013 của Ban Thường vụ Thành ủy sơ kết 5 năm thực hiện Chương trình hành động số 24-Ctr/TU ngày 24/9/2008 của Ban Thường vụ Thành ủy về xây dựng đội ngũ trí thức; bổ khuyết mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục thực hiện đến năm 2020;
+ Quyết định số 2846/QĐ-UBND ngày 21/12/2015 phê duyệt Kế hoạch thực hiện Chương trình hành động số 37-CTr/TU ngày 25/8/2015 của Ban Thường vụ Thành ủy thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 09/10/2014 của Bộ Chính trị, khóa XI “Về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030”.
Về công tác triển khai Luật KH&CN:Ủy ban nhân dân Thành phố Hải Phòng đã xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn thực hiện, triển khai Luật KH&CN và các văn bản có liên quan. Cụ thể:
- Quyết định số 2848/2015/QĐ-UBND ngày 21/12/2015 ban hành Quy chế quản lý các nhiệm vụ KH&CN có sử dụng ngân sách nhà nước Thành phố Hải Phòng;
- Quyết định số 2613/2015/QĐ-UBND ngày 17/11/2015 ban hành Quy định định mức xây dựng, phân bổ dự toán và quyết toán kinh phí đối với các nhiệm vụ KH&CN có sử dụng ngân sách nhà nước Thành phố Hải Phòng;
- Quyết định số 2817/QĐ-UBND ngày 11/12/2015 về việc thành lập Quỹ phát triển KH&CN Thành phố Hải phòng;
- Quyết định số 55/2016/QĐ-UBND ngày 12/01/2016 ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ phát triển KH&CN Thành phố Hải Phòng;
- Quyết định số 2745/2015/QĐ-UBND ngày 04/12/2015 ban hành Quy định về quản lý công nghệ các dự án đầu tư trên địa bàn Thành phố Hải Phòng;
- Quyết định số 2716/2015/QĐ-UBND ngày 04/12/2015 ban hành Quy định quản lý các hoạt động sáng kiến trên địa bàn Thành phố Hải Phòng;
- Quyết định số 2747/2015/QĐ-UBND ngày 04/12/2015 ban hành Quy định tổ chức các Hội thi sáng tạo kỹ thuật trên địa bàn Thành phố Hải Phòng;
- Quyết định số 2913/2014/QĐ-UBND ngày 24/12/2014 ban hành Quy chế phối hợp phòng, chống xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trên địa bàn Thành phố Hải Phòng;
- Quyết định số 2281/2015/QĐ-UBND ngày 05/10/2015 ban hành Quy chế phối hợp quản lý nhà nước về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng sản phẩm, hàng hóa trên địa bàn Thành phố Hải Phòng;
- Quyết định số 351/2016/QĐ-UBND ngày 07/3/2016 ban hành Quy định về Giải thưởng KH&CN trên địa bàn Thành phố Hải Phòng.
Thay mặt Đoàn Giám sát, Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam – Trưởng Đoàn giám sát, Ông Lê Bá Trình đánh giá cao những kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (Khóa XI) và Luật KH&CN của Thành phố Hải Phòng. Công tác quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết 20-NQ/TW trên địa bàn Thành phố Hải Phòng rất nghiêm túc, bài bản đã góp phần nâng cao nhận thức và hành động trong cán bộ, đảng viên, nhất là ở các cấp lãnh đạo từ thành phố đến các quận huyện, sở, ngành về các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế thành phố đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Công tác ban hành và cụ thể hóa các chính sách phát triển KH&CN khá toàn diện phù hợp với điều kiện và đặc thù của Thành phố Hải phòng. Ông Lê Bá Trình cho rằng, hoạt động KH&CN ở TP. Hải Phòng có nhiều điểm mới, như: Thành lập Sàn giao dịch Công nghệ và thiết bị; đổi mới hoạt động của Trung tâm ứng dụng tiến bộ KH&CN Thành phố Hải Phòng theo mô hình chuyển hóa các kết quả nghiên cứu vào sản xuất …
Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (Khóa XI) và Luật Khoa học và Công nghệ ở Thành phố Hải Phòng trong công tác đổi mới phương thức đầu tư và cơ chế tài chính trong hoạt động KH&CN, chính sách đào tạo, sử dụng, trọng dụng đội ngũ nhân lực KH&CN cũng đạt được những kết quả đáng chú ý như:
- Thực hiện tăng dần tỷ lệ chi cho KH&CN trong tổng chi ngân sách nhà nước và đa dạng hoá nguồn đầu tư phát triển KH&CN: Ngân sách chi cho hoạt động KH&CN của Thành phố tăng từ 10 - 20%/năm. Nguồn đầu tư ngoài ngân sách cho hoạt động KH&CN đạt tỷ lệ 50% cho giai đoạn 2006-2010, gần 75 % giai đoạn 2011-2015.
- Đã thành lập và ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ phát triển KH&CN thành phố Hải Phòng (Quyết định số 55/2016/QĐ-UBND ngày 12/01/2016) để chuyển đổi việc cấp kinh phí thực hiện nhiệm vụ KH&CN theo cơ chế quỹ.
- Đã có các chính sách thu hút chuyên gia, các nhà khoa học của Trung ương, nước ngoài phục vụ phát triển KH&CN của Thành phố. Tính đến tháng 6/2015, Thành phố có 4.900 cán bộ KH&CN làm việc trong các trường đại học, cao đẳng và các tổ chức KH&CN. Trong đó có 248 tiến sĩ (chiếm 5%), 1.706 thạc sĩ (chiếm 35%), 2.946 cán bộ KH&CN có trình độ đại học (chiếm 60%). Nhân lực khối các trường đại học, cao đẳng là 3.828 người (chiếm 78%); nhân lực khối các tổ chức Trung ương là 378 người (chiếm 7,8%); nhân lực khối các tổ chức địa phương là 694 người (chiếm 14,2%). Như vậy, đến năm 2015, số cán bộ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đạt 9 người/1 vạn dân.
Ông Lê Bá Trình đề nghị Thành phố Hải Phòng cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền Nghị quyết 20-NQ/TW về phát triển KH&CN; nghiên cứu và làm rõ các luận cứ về chuyển hóa các kết quả nghiên cứu vào sản xuất; tăng cường tiềm lực đầu tư cho KH&CN để phát triển thành phố thông minh. Đồng thời, việc thực hiện sơ kết việc thưc hiện Nghị quyết số 08-NQ/TU (dự kiến thực hiện trong tháng 10/2016) cần chú ý đánh giá một cách cụ thể kết quả thực hiện nhằm tìm ra giải pháp để thành phố Hải Phòng là Trung tâm phát triển KH&CN của vùng duyên hải Bắc Bộ.